August 20, 2014

Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính

Standard

Nguyễn Bính, nhà thơ được mệnh danh là nhà thơ của nông thôn, “chân quê” có phong cách thơ giản dị, gần gũi với đời sống của những người nông dân chất phác, thật thà. Nàng thơ của ông là những cô gái duyên thắm má đào, e thẹn khi đề cập đến tình duyên, yêu thương không trọn vẹn, tương tư đến tận trời xanh cũng thấu.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
- -------- -
MÔN: VĂN HÓA VIỆT NAM QUA VĂN HỌC
Đề tài:  Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính
GVHD: TS. PHAN MẠNH HÙNG
 NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1.      NGUYỄN HUỆ                            1056140014
2.      NGUYỆN THỊ TRÚC HUỆ         1056140015
3.      LÊ HỒNG NHỊ                             1056140027
4.      NGUYỄN VĂN THUẬN            1056140046
5.      NGUYỄN THỊ VÂN                    1056140060

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 8 NĂM 2014

MỤC LỤC

Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 2
Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 2
Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 2
1. Giới thiệu về Nguyễn Bính.................................................................... 3
2. Khái quát một số tác phẩm nổi tiếng..................................................... 4
3. Vị trí thơ Nguyễn Bính trong phong trào Thơ Mới............................... 5
4. Phân tích cái tôi trong thơ Nguyễn Bính............................................... 16
     4.1 Hoàn cảnh lịch sử thời đại ảnh hưởng đến thơ Nguyễn Bính.......... 16
     4.2 Sự tiếp xúc các nền văn hóa trong thơ Nguyễn Bính...................... 18
     4.3 Đặc điểm cái tôi trong thơ Nguyễn Bính........................................ 24
 Kết luận              ..................................................................................... 29
Tài liệu tham khảo.....................................................................................           30
Phân công công việc..................................................................................           31
MỞ ĐẦU
1.     Lý do chọn đề tài.
Môn Văn hóa Việt Nam Qua Văn Học đã giúp cho chúng em có thêm được nhiều kiến thức hiểu thêm được nền văn học của nước nhà, những ý nghĩa sâu xa của văn học trong cuộc sống. Qua môn học lần này nhóm em quyết định chọn đề tài này để nhóm có thể hiểu thêm một giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam, đồng thời qua đó cũng tìm hiểu rõ hơn về nhà thơ Nguyễn Bính, hiểu rõ những cái đặc sắc của ông. Đồng thời qua đó hiểu rõ đặc điểm của giai đoạn này và từ đó hiểu hơn về những giá trị van hóa được thể hiện.
Nhóm mong muốn là với đề tài này không chỉ để cho thành viên trong nhóm hiểu hơn về văn học Việt Nam cũng như hiểu rõ hơn về nét đặc việt của nhà thơ Nguyễn Bính, mà qua đó nhóm mong rằng nội dung mà mình tìm hiểu có thể giới thiệu đến mọi người và cùng nhau tìm hiểu tốt hơn.
2.     Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp của nhóm nghiên cứu thông qua bài giảng của thầy trên lớp và qua những kiến thức mà nhóm đã được học thời phổ thông.
Nhóm cũng đi vào nghiên cứu thông qua những công trình nghiên cứu đi trước, qua tác phẩm của nhà thơ, tài liệu trên mạng. Qua đó phân tích và tổng hợp và làm rõ nội dung mà nhóm đã đua ra.
3.     Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này nhóm tìm hiểu rõ hơn về giai đoạn phát triển văn học của đất nước, qua đó tìm hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Bính một nhà thơ có cái tôi rất riêng và đặc sắc.
NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU VỀ NGUYỄN BÍNH
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh vào cuối xuân đầu hạ năm 1918 tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, Xã Đồng Đội ( nay là xã Cộng Hòa ) huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình nhà nho nghèo. Nguyễn Bính bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm 1932, Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và bắt đầu nổi tiếng với bài thơ “Cô gái hái mơ” (1937), được giải khuyến khích của hội Tự Lực văn đoàn với tập thơ “Tâm hồn tôi” (1940). Năm 1943, Nguyễn Bính vào Nam Bộ, đến năm 1944 được giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ “Cây đàn tì bà”.
Trong cách mạng tháng Tám và suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Bính hoạt động ở Nam Bộ. Nhà thơ tham gia giữ những trách nhiệm trọng yếu như: Phụ trách Hội Văn nghệ cứu quốc tỉnh Rạch Gía, phó chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Rạch Gía, sau làm ở ban Văn nghệ Phòng Tuyên huấn Quân Khu Tám. Tháng 11 năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1956 làm chủ bút tuần báo Trăm hoa. Đầu năm 1964, Nguyễn Bính về công tác ở Ty văn hóa Nam Hà (cũ). Nguyễn Bính đột ngột mất vào sáng 30 tết năm Ất Tỵ (tức ngày 20-1-1966) khi đến thăm một người bạn tại xã Hòa Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định.
Năm 2000, Nguyễn Bính được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật đợt II.
Hai mươi năm sau cái chết của Nguyễn Bính (20/1/1966), tác phẩm của nhà thơ này mới thoát khỏi cõi “im lặng đáng sợ” của sự quên lãng chẳng biết vô tình hay cố ý của những ai ai, trở lại được in ấn, đăng tải, bàn luận. Từ 1986, những sưu tập, tuyển tập thơ Nguyễn Bính liên tục được in ra, liên tục có mặt trên giá các quầy sách các hiệu sách. Tiếp đó cũng đã thấy xuất hiện nhiều cuốn sách nói về con người, cuộc đời và đặc sắc sáng tạo của nhà thơ này. Khá nhiều đoạn đời Nguyễn Bính đã được phác hoạ, dù có khi chỉ thông qua những giai thoại. Tuy vậy, có một loạt sự việc về hoạt động của Nguyễn Bính những năm 1955-57, tức là khi Nguyễn Bính từ miền Nam tập kết ra Bắc, sống và làm việc ở Hà Nội, làm báo Trăm hoa, rồi sau chừng như là bị an trí, nghĩa là bị buộc phải về sống ở Nam Định, − thì hầu như ít thấy ai nhắc đến. Những bài viết được gom vào các cuốn sách Nguyễn Bính, thi sĩ của yêu thương ; Nguyễn Bính, đời và thơ ; Thơ và giai thoại Nguyễn Bính ; Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê, v.v… không nhắc gì đến sự việc này; những người được xem là từng có xúc tiếp thậm chí cùng làm việc với Nguyễn Bính thời gian nói trên như Trần Lê Văn, Hoài Việt,…nếu nhắc đến cũng chỉ bất đắc dĩ xác nhận “Nguyễn Bính làm báo Trăm hoa”, thế thôi.
     Có lẽ, Tô Hoài là người trong cuộc duy nhất tính đến nay có hé ra đôi dòng hồi ức về hoạt động nói trên của Nguyễn Bính. Rải rác trong hai cuốn của Tô Hoài Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999), người đọc có thể nhặt được đôi chi tiết về Nguyễn Bính thời làm báo Trăm hoa, tất nhiên là được trình bày hoàn toàn theo cách nhìn của người kể chuyện.



2. KHÁI QUÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM NỔI TIẾNG
Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình Nguyễn Bính đã để lại một số lượng tác phẩm đồ sộ. Độc giả biết đến thơ Nguyễn Bính với những tác phẩm tiêu biểu như:
Lỡ bước sang ngang (thơ)
Tâm hồn tôi (thơ)
Hương cố nhân (thơ)
Mười hai bến nước (thơ)
Người con gái ở lầu hóa (thơ)
Không nhan sắc (truyện)
Trả ta về (thơ)
Đồng tháp mười (thơ)
Gửi người vợ Miền Nam (thơ)
Đêm sao sáng (thơ)
Và một số tá phẩm khác:
Các tập thơ: Một nghìn cửa sổ ( 1941), Mây Tần ( 1942), Tập Thơ yêu nước, Sóng biển cỏ, Ông lão mài gươm (1947), Trăng kia đã đứng ngang đầu, Những dòng tâm huyết, Mừng Đảng ra đời ( 1953), Nước giếng thơi ( 1957), Tình nghĩa đôi ta ( 1960).
Truyện Thơ: Cô gái Ba Tư ( 1943), Cây đàn Tỳ Bà ( 1944), Trông bóng cờ bay ( 1957), Tiếng trống đêm xuân ( 1958).
Truyện: Ngậm miệng (1940), Thạch xương bồ, Không đất cắm dùi ( 1944), Sang máu ( 1947).
Kịch bản chèo: Cô Son (1961), Người lái đò sông Vị (1964).
Lý luận sáng tác: Cách làm thơ lục bát (1955).
3. VỊ TRÍ THƠ NGUYỄN BÍNH TRONG PHONG TRÀO THƠ MỚI
Trong phong trào thơ mới giai đoạn (1930 -1945) khi nhiều nhà thơ có ý "hiện đại hóa" thơ mình về mọi mặt thì có một nhà thơ lặng lẽ, âm thầm sáng tác và đi theo một con đường riêng. Ðó là Nguyễn Bính.
     Ðương thời, đánh giá về thơ Nguyễn Bính có nhiều ý kiến rất khác nhau. Thậm chí có người còn cho rằng, thơ Nguyễn Bính chỉ để những người mộc mạc "chân quê" đọc và thưởng thức mà thôi. Nhưng thật kỳ lạ càng trải qua thời gian hơi thơ mộc mạc, quê mùa, hương đồng gió nội ấy càng ăn sâu, bám rễ trong lòng người đọc. Nhiều thế hệ người Việt Nam đã đọc, đã thuộc và say mê thơ Nguyễn Bính. Chính hơi thở quê mùa, dung dị ấy là yếu tố khẳng định vị trí Nguyễn Bính trong nền văn học Việt Nam.
Xuất hiện trên thi đàn khá sớm nhưng tiếng thơ chân quê của Nguyễn Bính chưa phải trong một sớm một chiều đã tạo được tiếng vang trong công chúng độc giả. Trong mục Tin thơ trên báo Ngày nay (số 98, ra ngày 20-2-1938), Thế Lữ đã điểm thơ xuân Tản Đà, Xuân Diệu và tiếp đến Nguyễn Bính:
… “Thơ xuân của ông Nguyễn Bính là những bức tranh nhỏ nhắn vẽ những nét hoạt bát vui vẻ không có chút gì gọi là kỳ khu. Bốn câu đầu trong bài Xuân về của ông:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng:
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm,
Liếc mắt nhìn trời, đôi mắt trong.
Vẻ đùa cợt thực là tài tình ở những tiếng nhắc lại ỡm ờ nhưng không ngang chướng.
Ông Bính có một giọng thơ bao lơn rất dung dị và rất đáng yêu”...
Với bút danh Nàng Lê, Lê Tràng Kiều trong bài viết Thi sĩ với giai nhân in trên Tiểu thuyết thứ Năm (số 6, ra ngày 10-11-1938) đã thẩm bình dòng thơ ca tụng người đẹp trong thơ Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can, Thế Lữ, đặc biệt đặt trong tương quan Nguyễn Bính - Nguyễn Nhược Pháp:
… “Cứ như hai nhà thi sĩ Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp thế mà hóm. Này nhé, “người ta” của Nguyễn Nhược Pháp chỉ có thế này:
Mê nàng bao nhiêu người làm thơ
Tiếp theo trong bài viết Tình và tứ của thi sĩ cũng in trên Tiểu thuyết thứ Năm (số 8, ra ngày 24-11-1938), Nàng Lê đi sâu nhận diện về dòng “thơ ái tình” với chứng dẫn thơ Tản Đà, Thanh Tịnh, Yến Lan, Nguyễn Xuân Huy, Vũ Trọng Can, Đông Hồ và nhấn mạnh giọng điệu thơ tình Nguyễn Bính:
“Mãi đến nay ta vẫn chưa hiểu rõ những người đa tình dễ trở nên thi sĩ, hay thi sĩ dễ trở nên đa tình. Nhưng nếu chỉ đa tình mà cũng là thi sĩ thì cả một lớp thanh niên ở mọi thời đại đều đã là thi sĩ cả? Và nếu chỉ là thi sĩ mới trở nên đa tình thì đời này chẳng nhẽ ít khách đa tình ư?
Có điều tôi nhận thấy đám thi sĩ họ có cách kêu gào những điều họ muốn, những điều họ nghĩ. Không những thế, có khi họ nghĩ hộ cả cho người khác nữa. Vì thế có nhiều người ôm ấp thờ phụng thầm một thi sĩ trong óc cũng chẳng có gì lạ. Ví chắc hẳn thi sĩ đó một khi đã tả rõ những thổn thức, thiếu thốn, xót thương hoặc băn khoăn của họ. Ở ái tình, thi sĩ đã khóc hộ ta, và kể lại những băn khoăn của ta với người khác…
Liền ngay trên Tiểu thuyết thứ Năm số tiếp theo (số 9, ra ngày 1-12-1938), với bài viết Văn chương khi về cảnh cũ, nhà văn Lê Tràng Kiều ký rõ tên thật của mình đã truy tìm nguồn thơ hoài niệm người xưa cảnh cũ từ các tác gia thời Đường (Triệu Hổ, Thôi Hiệu, Lưu Vũ Tích) đến tiếng thơ của người đương thời, qua trích dẫn thơ Chế Lan Viên, Thanh Tịnh và đoạn cuối là toàn văn một bài thơ của Nguyễn Bính: 
“Một chiều khách trở về cảnh cũ...
Khách là một trong bọn giang hồ - hay dù không là giang hồ - lại là một trong bọn thi sĩ. Khách sẽ thấy nơi xưa - mà đã hơn một lần, khách bước chân tới - nay đã biến đổi, tuy rằng cái tinh hoa của cảnh vật vẫn còn nguyên vẹn. Khách bồi hồi vơ vẩn. Vì khách là thi sĩ. Mà là thi sĩ thì chỉ một vật rất hèn mọn nhỏ nhặt biến thiên đi cũng đủ làm xúc động lòng thơ. Huống chi cả một phong cảnh đông trong khung vũ trụ đã đổi thay? ...
Trong mục Thi pháp thuần Việt ở sách Khảo luận luật thơ mới (Huế, 1940. In lần ba có chỉnh lý với nhan đề Khảo luận luật thơ, Sơn Quang xuất bản, Sài Gòn, 1967), Lam Giang coi thơ lục bát là thành quả của Quốc phong và minh chứng bằng lục bátTruyện Kiều của Nguyễn Du cho đến thơ Nguyễn Bính đương thời:
“Thật là một vinh dự cho dân tộc vì trải qua hai ngàn năm ảnh hưởng Hán hóa, quốc phong của ta vẫn còn giữ được bản sắc, thể cách, cú điệu riêng…
… Duy danh định nghĩa, thơ lục bát của văn chương bác học là một lối thơ đều đều trên 6 dưới 8. Yêu vận bình vận liên lạc từ chữ thứ 6 của câu trên xuống chữ thứ 6 của câu dưới. Đều đều lắm thì dễ nhàm chán, cho nên văn chương bác học cố biến đổi cách cắt mạch của câu lục cũng như của câu bát.
Khi tập thơ Hương cố nhân ra đời, ngay năm sau nhà phê bình Phạm Mạnh Phan đồng thời là thư ký tòa soạn đã viết bài Đọc “Hương cố nhân” của Nguyễn Bính trên tạp chí Tri tân (số 54, tháng 7-1942). Trong đoạn mở đầu, Phạm Mạnh Phan khơi gợi vấn đề một cách hấp dẫn:
“Ít lâu nay trong làng “thơ mới” của nước ta đã sản xuất ra được một số thi sĩ khá đông.
Ngoài những tên đã quen biết như Thế Lữ, Trọng Lư, Huy Thông, Huy Cận, vân vân, một số những người khác chỉ vào dạng “thợ thơ” (versificateus) nhưng cũng lăm le ôm mộng lớn muốn người ta liệt tên mình vào hạng “thi bá”!
Làm được vài bài thơ, xuất bản được đôi ba tập thơ trong đó chỉ tuyền những câu gò gẫm, những vần ép uổng một cách ngượng nghịu, đâu đã đáng lĩnh chức thi nhân mà người đời trao tặng.
Hôm nay tôi giới thiệu với bạn đọc, ông Nguyễn Bính, tác giả tập thơ Hương cố nhân rồi các bạn sẽ định giá trị thơ ông.
Ông Nguyễn Bính không phải là một tên mới trong làng ngâm vịnh. Vì tập thơ này không phải là tập thơ đầu. Nó ra sau hai cuốnLỡ bước sang ngang và Tâm hồn tôi”…
Từ đây nhà phê bình Phạm Mạnh Phan triển khai trong đề mục Những câu thơ đẹp với lời ca tụng Nguyễn Bính đích thực là “thi sĩ”, “người đa cảm”, “mảnh hồn trong trẻo”, “nên câu tuyệt diệu”:
“Thoạt mới giở tập thơ ta thấy ngay hai câu thơ in riêng một trang, nhường như tác giả có ý nêu lên làm đích cho những trang sau:
Xây bao nhiêu mộng thế mà,
Đến nay phải gọi người là cố nhân!
Chưa cần đọc toàn tập, ta cũng đoán thi sĩ Nguyễn Bính sẽ nói những gì?
Phải chăng thi sĩ trong tuổi diệu tình đã từng phen gặp gỡ một giai nhân, một giai nhân mà một khóe mắt cũng đủ nghiêng lệch một tâm hồn, một cái cười nụ cũng đủ làm đổ vỡ một cái gì ấy?
Thi sĩ đã từng sống trong những giờ khắc mê ly, tâm hồn đã từng dào dạt vì yêu, vì nhớ. Và, trong mộng đẹp, ái ân đã từng xây dựng những lâu đài đồ sộ nguy nga.
Thế mà đến nay người yêu đã nỡ hững hờ để cho ai luống ngậm ngùi, phải cùng nàng Thơ than thở! Và thôi, từ đây biết bao mộng đẹp đành phải để chúng lắng trong mơ mà trái tim mang vết âu nhờ ngày tháng gắn hàn!
Đọc Hương cố nhân, ta thấy thi sĩ Nguyễn Bính là người đa cảm, mảnh hồn trong trẻo của tuổi anh niên đã sớm thả theo luồng gió ái ân mà nên câu tuyệt diệu:
Con tằm là lụy ba sinh,
Mà em là lụy của anh muôn đời.
Thi sĩ là người thế nào mà đã chót vì yêu đương mang “lụy” vào mình? Ta hãy nghe mấy lời thành thật và thấm thía của thi sĩ đã nói về gia cảnh mình:
Thày tôi dạy học chữ nho,
Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh.
Có gì tiếng cả nhà thanh:
Cơm ăn đủ bữa áo lành đủ thay.
Còn tôi sống sót là may,
Mẹ hiền mất sớm, giời đầy làm thơ.
(Nhầm)
Thế rồi nhà phê bình Phạm Mạnh Phan chuyển tiếp sang đề mục Những câu thơ dở và đi sâu phân tích, công kích những phương diện yếu kém trong thơ Nguyễn Bính, trực diện chỉ ra những hạn chế, non yếu cả về nguồn cảm xúc, thi tứ, nội dung và hình thức - những câu thơ “ngớ ngẩn”, “vừa nhạt nhẽo, vừa sống sượng”, “vừa non nớt, vừa ẻo lả”, “có một tâm hồn rất ủy mị”:
… “Đọc những câu thơ mà tôi trích trên đây, độc giả thấy chúng tuy không được tuyệt diệu, nhưng cũng nhẹ nhàng bay bướm.
Chúng chứng thực rằng thi sĩ Nguyễn Bính cũng có tâm hồn thi sĩ, biết cảm những cái nên thơ, biết du dương lòng mình trong những phút đau thương bằng những vần điệu êm đềm nhè nhẹ.
Ông đã tỏ ra rằng ở chiếc đàn lòng của ông, cái dây thương nhớ là cái dây rung động hơn hết.
Nếu toàn tập có những câu như trên thì, với thời gian, với sự cố gắng, với sức rèn luyện tâm hồn trong trường đời, ông Nguyễn Bính sẽ có hi vọng trở nên một thi nhân nổi tiếng trong làng ngâm vịnh.
Nhưng tiếc thay, bên cạnh những câu nhẹ nhàng đó, chúng ta thấy nhiều câu đã quảng cáo một cách không hay cho thi sĩ.
Sống giữa lúc bom đạn nổ inh tai, lửa chiến tranh bùng cháy khắp mọi nơi, các thanh niên thế giới đang đua nhau xả thân vì tổ quốc, vui lòng nhắm mắt bên bờ nghĩa vụ, thì ở nước Nam nhà, một thanh niên làm thơ khóc lóc vì tình duyên trắc trở và muốn hủy hoại thân thể mình, phải chăng đó là một điều đáng buồn cho tương lai đất nước?
Hỡi các thi nhân:
Tôi vẫn biết người là con cưng của Tạo hóa, người có tâm hồn đa cảm sớm biết rung động trước vẻ đẹp của ngày hè tươi sáng hay sớm biết gẩy những “sợi tơ lòng” trước cảnh chiều đông mưa phùn, gió rét.
Trước làn sóng rung rinh của những nhành lục liễu rủ trên gương hồ biếc, không ai ngăn thi nhân đừng ngâm vịnh mà không “gọi gió, gọi thông, lên tiếng họa”.
Trước những nỗi đau thương thê thảm của đời, ai cấm thi nhân không được:
Trăm ngàn năm nẩy mãi sợi tơ lòng,
Ca những khúc sầu vui, tình thiên hạ.
(Thế Lữ - Mấy vần thơ)
Vì quả như lời thi sĩ Musset đã nói trong bài thơ La nuit de Mai:
Les phus déssespérés sont les chants les plus beaux
Et j’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots.
mà thi sĩ Nguyễn Giang đã dịch gần được sát ý trong Danh văn Âu Mỹ:
Vãn thanh cẩm tú trong đời,
Những câu tuyệt diệu ấy lời xót xa!
Hỡi các thi nhân, người hãy nhận chân cái nhiệm vụ của thi nhân!
Người đừng đem cái thất vọng vô căn cứ làm tê liệt những hi vọng của đất nước. Người đừng ca tụng những thú vui nhục dục mê hồn mà chôn vùi nguồn sinh lực của giống nòi.
Người hãy gieo rắc bằng những vần điệu huyền ảo vào trong mọi người cái thú say sưa của một cuộc đắc thắng mãnh liệt giữa những cám dỗ đê hèn của đời vật chất, với những bổn phận thiêng liêng làm người làm dân trong những giờ phút phục hưng này của gia đình, của đất nước.
Người hãy là những đạo sĩ (être des mages) như điều mong ước của nhà đại thi hào Victor Hugo mà tìm một con đường sáng cho người đồng chủng”...
Có thể nói đây là những ý kiến chính xác, thể hiện bản lĩnh, tính khách quan, trung thực của nhà phê bình, góp phần làm nên chất lượng phê bình và qua đó tác động, phát huy ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác.
Rồi đến hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân trong lời giới thiệu Một thời đại trong thi ca ở sách Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, 1942) có ý nhấn mạnh chất thơ, hình thức và phong cách thơ Nguyễn Bính so với nhiều thi nhân đương thời:
… “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu…
… Trái lại, trong thơ Nguyễn Nhược Pháp chịu không thể thấy dấu tích một nhà thơ xưa nào. Không biết ai đã giúp Nguyễn Nhược Pháp tìm ra nụ cười kín đáo, hiền lành và có duyên ấy chăng? Dầu sao đây rõ ràng là một nụ cười riêng của người Việt. Thế mà lạ, trong vườn thơ nó chỉ nở ra có một lần. Sau này Nguyễn Bính đi tìm tính chất Việt Nam lại trở về ca dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vẻ mộc mạc của những câu hát đồng quê.
 Trong phần khái lược chân dung thi sĩ “nhà quê”, “quê mùa” xứ Sơn Nam hạ, Hoài Thanh - Hoài Chân tuyển chọn 8 bài thơ (đồng hạng số bài với Chế Lan Viên, xếp trên các tác gia Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Nam Trân được tuyển 7 bài), từ đó đi sâu phân tích chất thơ hồn hậu in đậm phong vị ca dao cũng như chỉ ra những sự lệch pha, lạc bước, quá đà ở thơ Nguyễn Bính:
“Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm trí chúng ta. Nhưng - khôn hay dại - chúng ta ngày một cố lìa xa nề nếp cũ để hòng đi tới chỗ mà ta gọi là văn minh. Dầu sau, những tính tình tư tưởng ta hấp thụ ở học đường cám dỗ ta, những cái phiền phức của cuộc đời mới lôi cuốn ta, nên ở mỗi chúng ta người nhà quê kia vốn khiêm tốn và hiền lành ít có dịp xuất đầu lộ diện. Đến nỗi có lúc ta tưởng chàng đã chết rồi. Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu. Họ chẳng ngớt lời khen những câu như:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Hay:
Lòng anh: giếng ngọt trong veo,
Giăng thu trong vắt biển chiều trong xanh.
Lòng em như bụi kinh thành,
Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe.
Tiếc thay Nguyễn Bính lại không phải là người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như thế này thì có gì?”. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước.
Nhà phê bình Lương Đức Thiệp trong công trình khảo sát chuyên sâu Việt Nam thi ca luận (Khuê Văn xuất bản cục, Hà Nội, 1942) đã xác định tính hai mặt đỏng đảnh của thể thơ lục bát và so sánh, nhấn mạnh bước tiến từ Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương đến Nguyễn Bính:
“Thể lục bát phát sinh do cái tính cách đặc biệt về âm hưởng trong Việt ngữ. Hình thức này do quảng đại dân chúng tạo thành nên rất phổ thông. Nó phổ thông nhưng lại khó đạt tới được nghệ thuật cho những người chưa thấu lĩnh được hết cái tinh vi của Việt ngữ. Dùng thể này, một thi sĩ có thể dễ trở thành người làm vè. Chỉ một hay hai chữ dùng không đắc vị cũng đủ làm cho cả câu đáng nhẽ hay thành ra rất dở được.
Những mẩu thơ tự nhiên đến ngây ngô, chân thực đến dớ dẩn là kết quả dĩ nhiên của quan niệm đơn giản này. Nó không đứng vững được tự trong bản chất của nghệ thuật, bởi nghệ thuật nào mà phần nhân công không phải nhiều. Vật chất, kể cả âm thanh, mầu sắc, chỉ là những phương tiện của nghệ sĩ trong việc diễn tả ý tình, những phương cách biểu thị. Có thế thôi!
Mầu thuốc, giấy, lụa phải có thay họa sĩ mới thành được bức tranh. Cây đàn không người nắn, đâu phát ra được những âm thanh trầm bổng mê hồn. Khúc gỗ, tảng đá, khối đồng không có lưỡi đục nhà điêu khắc đụng vào, không có hồn nghệ sĩ truyền sang, hẳn không thành hình gì cả, dù gỗ có quý, đá có mịn, đồng có sáng.
Phái này gồm các thi sĩ “cảm hứng”, thi sĩ “nhất thời”, thi sĩ “bất đắc dĩ”… một số thi sĩ linh tinh mà tài bộ chưa kết tinh được trong một tác phẩm nào. Kể về số lượng, phái này trội hơn tất cả”…
Thế rồi đến nhà phê bình Lê Thanh trong bài Thanh niên Việt Nam với một cuộc cải cách văn học ngày nay in trên tạp chí Tri tân(số 119, tháng 11-1943) cũng lên tiếng phê phán quyết liệt lối thơ bi lụy, ủy mị, sáo ngữ, thậm chí bị/ được gọi là “hủ bại” (trong đó có cả Chế Lan Viên và Nguyễn Bính), giống như lối thơ mới Trung Quốc đã diễn ra hồi đầu thế kỷ, từ đó định hướng cho một dòng thơ giàu sức sống và tinh thần tranh đấu:
…“Ta phải buồn rầu mà nhận văn chương ta ngày nay về một vài phương diện không khác gì văn chương Trung Hoa trước thời cách mệnh, ngày nay nếu muốn tìm trong làng văn ta một số nhà văn “không ốm mà rên”, như Hồ Thích đã nói, là một việc không khó khăn gì.
Chao ôi mong nhớ ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn!
(Chế Lan Viên)
Nhật ký nhòa đi mất cả rồi
Chỉ còn vết mực ố hoen thôi!
Biết rằng nên xé hay nên đốt
Hay để mà thương đến mãn đời?
(Nguyễn Bính)
Trong công trình nghiên cứu tổng thành Nhà văn hiện đại, quyển ba (NXB Tân dân, Hà Nội, 1943), nhà phê bình Vũ Ngọc Phan tuy không định vị Nguyễn Bính thành một tác gia độc lập nhưng cũng đã nhắc đến ông trong bài khái quát Các thi gia và xác định đặc tính thi phái Nguyễn Bính trên dòng chảy con đường tiến hóa của nền thơ Việt đương thời:
“Người ta có thể kể những thi sĩ dùng lời thật cũ, thỉnh thoảng điểm một vài ý thật mới như Đái Đức Tuấn (Tchya), Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính - tác giả những tập thơ Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi (Lê Cường - Hà Nội, 1949), Hương cố nhân (Á châu - Hà Nội, 1941) - dùng một lối thật cổ, lối lục bát phong dao để diễn một thứ tình quê phác thực. Nhiều câu của ông gần như vẽ và thật thà, rõ ràng, như hai lần hai là bốn”...
Vốn là thi sĩ nổi tiếng, có nhiều bài thơ in báo và nhiều tập thơ đã được xuất bản ngay từ trước 1945 nhưng tiếng thơ Nguyễn Bính chưa phải đã được người đương thời bàn rộng và đánh giá cao. Trên văn đàn, Nguyễn Bính được đón nhận trước hết như một nhà thơ chân quê, gắn bó với con người và cảnh vật đồng quê, tình yêu thôn quê dân dã. Thơ Nguyễn Bính được đánh giá cao với chất liệu ngôn ngữ đồng quê và phong vị ca dao dễ nhớ dễ thuộc. Điều đó cho thấy ngay từ đương thời phong trào Thơ mới đã xuất hiện những cách tiếp nhận khác nhau về thơ Nguyễn Bính, bao gồm cả những ý kiến đồng cảm, ngợi ca cũng như tiếng nói phản biện, phản ứng, phê phán gay gắt. Qua trường hợp thơ Nguyễn Bính đã thấy thấp thoáng một sự đổi thay, yêu cầu hướng về nghĩa vụ công dân, tranh đấu cho lợi quyền xã hội, dân tộc và đất nước. Về cơ bản, đó là những tiếng nói của những người có nghề, trung thực, phản ánh sát đúng chất lượng thơ Nguyễn Bính và cũng chứng tỏ tinh thần khách quan, dân chủ, đa phương của chính đời sống phê bình văn học đương thời.
4. PHÂN TÍCH CÁI TÔI TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH
4.1 Hoàn cảnh lịch sử thời đại.
 Xét về hoàn cảnh lịch sử, từ giữa thế kỷ XIX, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam đều là các nước tiền công nghiệp trước khi tiếp xúc với phương Tây công nghiệp hiện đại. Đây là cuộc biến thiên lớn nhất tạo nên một tình thế đối lập mãnh liệt giữa cái cũ và mới, giữa Á và Âu, giữa bảo thủ và cấp tiến. Chính sự tiếp xúc này đã có những biến đổi sâu sắc, tạo nên những lớp người mới, làm thay đổi cách sống, cách nghĩ và ngay cả cách cảm. Sự gặp gỡ với phương Tây đã cởi trói và làm thay đổi nhiều quan niệm từ hàng chục thế kỷ. Và sự thay đổi trong cách nhìn, cách cảm khiến cho thế hệ mới có cái nhìn khác hẳn về những vấn đề rất đời thường, xem đó như là một sự chệch hướng về nhận thức.
Việc chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào Việt Nam và sau Thế chiến thứ nhất, cùng với việc người Pháp đẩy mạnh phong trào khai phá thuộc địa đã vô tình đẩy nhanh làn gió của văn hóa phương Tây vào Việt Nam.
Giới trí thức trẻ nhanh chóng tiếp thu văn hóa Pháp và nhận ra vần luậtniêm luật của Nho gia đã quá gò bó trong việc thể hiện tiếng thơ của con người.
Năm 1917 trên báo Nam Phong (số 5), Phạm Quỳnh, nổi tiếng là người bảo thủ, cũng phải thú nhận sự gò bó của các luật thơ cũ:
"Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy."
Sau đó, Phan Khôi cũng viết nhiều bài báo chỉ trích những trói buộc của thơ văn cũ và đòi hỏi cởi trói cho sáng tác thơ ca.
Trong khoảng 1924-1925, cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách kể về mối tình Đạm Thủy-Tố Tâm đã gây sóng gió trong giới học sinh và thanh niên thành thị, dù tình yêu ấy chưa vượt qua được rào cản của đại gia đình phong kiến. Tiếp theo đó, năm 1928Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã phá vỡ vần điệu niêm luật, số câu, số chữ của "thơ cũ". Năm 1929Trịnh Đình Rư tiếp tục viết trên báo Phụ nữ tân văn (số 26):
"Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy.”
Ngày 10 tháng 3 năm 1932, bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên báo Phụ nữ tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới. Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941, cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới.
Một trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai giai cấp tư sản và tiểu tư sản này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945
Giai cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững nhân cách của mình.
Cùng với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học. Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm sâu vào ý thức của người sáng tác.
4.2 Sự tiếp xúc các nền văn hóa trong thơ Nguyễn Bính
Xác định tính dân chủ và tinh thần tiếp xúc đồng đại với đời sống nghệ thuật phương Tây đã tiếp thêm sinh lực cho phong trào Thơ mới và định hình một hệ hình diễn ngôn kiểu mới, một hệ thống tư tưởng nghệ thuật và hình thức câu thơ kiểu mới.
Sự phát triển và tiến hóa của Thơ mới Việt Nam gắn bó chặt chẽ với cội nguồn trào lưu nhân văn thế kỷ XVIII-XIX và xu thế hội nhập, tiếp nhận ảnh hưởng thơ ca Pháp và phương Tây. Bản thân các nhà Thơ mới cũng như các nhà phê bình đương thời đều ý thức rõ điều này...
Sự lý giải về cội nguồn Thơ mới có thể khác nhau song quan sát dòng chảy Thơ mới sẽ thấy rõ xu thế tiếp nhận, ảnh hưởng và khả năng hòa nhập với nền thơ hiện đại trong khu vực và thế giới. Diện mạo và đặc điểm quá trình tiếp nhận ảnh hưởng các nền thơ truyền thống và hiện đại Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Hy Lạp, Nhật Bản, Trung Quốc... thể hiện sâu sắc qua cả nội dung và hình thức biểu hiện, phản ánh trực tiếp qua thực tiễn sáng tác và ý kiến của chính nhà thơ cũng như các nhà phê bình đương thời.
Qua thời gian, Thơ mới ngày càng phát triển, đạt nhiều thành tựu và làm nên “một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh)… Trong bước đi ban đầu, nhiều nhà Thơ mới được tiếp xúc với văn hóa Pháp và phương Tây đã đủ khả năng viết nên một lối thơ mới mẻ bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Pháp.
Tinh thần dân tộc sâu sắc
Thơ mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu, tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng
Tâm sự yêu nước thiết tha
Có thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều bài thơ, Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị, đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.
Trong chúng ta, có lẽ không ai là không thuộc thơ Nguyễn Bính, ít ra là một vài câu. Trên thực tế, thơ Nguyễn Bính đã đi vào tâm hồn dân tộc, thấm vào lời ăn tiếng nói người dân quê, trong câu hát ru của mẹ, của bà, trong lời giao duyên tình tứ của những đôi lứa yêu nhau... Có lẽ ở góc độ này, Nguyễn Bính chỉ đứng sau đại thi hào Nguyễn Du mà thôi.
Để hiểu cái điều bình dị và kỳ diệu ấy, ta hãy trở về cái không khí xã hội, không khí văn học Việt Nam, thời Nguyễn Bính mới xuất hiện giữa làng thơ. Thời kỳ ấy, trưước làn gió mới mẻ của phương Tây thổi vào, khi mà ngưười ta háo hức hiện đại hoá, đua nhau cách tân, lao vào tìm hiểu những cái mới lạ của phương Tây, thì Nguyễn Bính cứ hồn nhiên giữa làng thơ với chất quê mộc mạc của mình.
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1940, nhà nghiên cứu phê bình văn học nổi tiếng Hoài Thanh đã quả quyết rằng: "Trong lịch sử thi ca Việt Nam, chưa bao giờ có một hồn thơ "quê mùa" như Nguyễn Bính".  Quê mùa mà nổi tiếng, vì quê mùa ở đây chính là cái gốc nhân bản của con ngưười Việt Nam, cái hương vị thanh tao của đồng quê, cái hồn mộc mạc của quê hương.
Nguyễn Bính đã đưa vào thơ mình cái chất quê mùa của hương đồng gió nội một cách có ý thức sâu sắc. Có thể coi bài Chân quê là một tuyên ngôn nghệ thuật của ông về cái hồn quê  ấy. Trong bài thơ, tác giả mượn lời trách nhẹ nhàng cô người yêu đi tỉnh về đã để cho hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, để bộc lộ quan điểm về cái chân quê của mình:
Với Nguyễn Bính, chân quê chính là cái gốc, là bản sắc văn hoá dân tộc, là nét đẹp nhân bản của con người Việt Nam, phải biết bảo vệ và gìn giữ nó.
Ðọc thơ Nguyễn Bính ta nhận ra vô số những viên ngọc ngôn ngữ dung dị mà duyên dáng, sâu sắc mà hồn nhiên, lung linh toả sáng, toát ra cái hồn quê mộc mạc, tình quê đằm thắm, tạo thành phong cách Nguyễn Bính, phong cách chân quê. Trong mạch thơ đồng quê ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, có một số nhà thơ nổi tiếng như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… đã để lại cho đời những bức tranh quê chân thực. Trong số đó, Nguyễn Bính có một giọng thơ riêng, để lại cho đời những bài thơ mang âm hưưởng tình quê chân thực. Dù có một số bài còn dàn trải, có vẻ dễ dãi, thơ Nguyễn Bính vẫn đưược đông đảo bạn đọc thuộc và yêu mến, bởi thơ ông đã nói hộ nỗi lòng, trạng thái tình cảm đa dạng trong tình ái của nhiều lớp ngưười quê. Những mối tình quê trong thơ ông thưường éo le, ngang trái, sầu muộn mà đằng sau nó, bạn đọc dễ dàng nhận ra tâm sự bi phẫn về hoàn cảnh xã hội ngột ngạt, niềm hoài hương khắc khoải khôn nguôi và khát vọng đổi thay…
 Nguyễn Bính đã có công phát hiện vô vàn những vẻ đẹp tinh tế của thôn quê mà mắt thường không nhận ra được. Cảnh quê ở đây rất đẹp, nó được xây dựng từ những kỷ niệm dễ gợi cảm nhất trong tâm linh con người về một miền quê thanh bình, hạnh phúc, đẹp một cách chân thực kiểu cổ điển chỉ có trong tưởng tượng. Cuộc sống thực lam lũ, khổ đau không cho người ta sống như mong ước thì thơ là niềm khao khát, là ước nguyện của con người, cũng vì thế cảnh quê trong tâm tưởng tác giả đồng thời là giấc mộng ngàn đời. Phải chăng đối với nhiều người, ý niệm về quê hương, về nhà quê ngày xưa phải là một ý niệm đẹp, thú vị, đáng nhớ, một nông thôn trong cảnh điền viên lý tưởng đáng mơ ước? Người ta tiếp nhận không phải vì nó giống thực mà vì nó giống như mơ ước, mơ ước của nhiều người qua suốt nhiều thời.
Thơ quê hương của Nguyễn Bính không hiện thực mà lãng mạn, nhà thơ ít miêu tả những số phận đắng cay, những cảnh đời cơ cực nhọc nhằn mà hình ảnh làng quê trong thơ ông thường tươi sáng, thơ mộng. Thi sĩ có những câu thơ thật đẹp về một nông thôn yên vui, no ấm, thanh bình; nhất là khi Tết đến, cùng với những ngày hội xuân, khung cảnh làng quê hiện ra đẹp như tranh lụa, mơ màng như giấc chiêm bao: Tháng giêng vừa Tết đầu xuân/Xanh um lá mạ, trắng ngần hoa cam/ Mưa xuân rắc bụi quanh làng/Bà già sắm sửa hành trang đi chùa/ Ông già vào núi đề thơ/  Trai tơ đình đám, gái tơ hội hè  (Tỳ bà truyện).
Nông thôn Việt Nam trước Cách mạng khác xa nông thôn Việt Nam ngày nay nhưng lại rất gần gũi với nông thôn Việt Nam xa xưa: đời sống như ngưng đọng lại trong lũy tre làng, tâm tình con người được quy định bởi nền kinh tế tiểu nông khép kín, những cô gái chăn tằm dệt vải chỉ đi từ khung cửi tới nương dâu, cô lái đò chỉ quen với một khúc sông, một cái bến… Mỗi năm một vài lần diễn ra những sinh hoạt cổ truyền, những ngày hội lễ, những đêm hát chèo, nhưng tất cả cũng chỉ xôn xao trong sự tĩnh lặng cố hữu của thôn quê. Những điều ấy ta đều gặp lại trong thơ Nguyễn Bính. Người ta chợt thấy ngạc nhiên bởi những chất liệu quá ư thân thuộc vốn có trong đời sống thôn quê hàng nghìn năm nay đi vào thơ lại có sức gợi cảm đến thế.
 Đặc biệt, trong những bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã gợi được cái thần thái của văn hóa làng quê. Đọc thơ Nguyễn Bính, người ta như sống lại những ngày hội xuân, những ngày hội làng, những đêm hát chèo, một buổi lễ chùa, những nét tín ngưỡng tôn giáo và phong tục tập quán, lớp học thầy đồ, những trò vui dân dã, cách ăn mặc và nếp sống xa xưa, giấc mơ quan trạng… Bài thơ Chùa vắng đã gợi được một nét đặc biệt của văn hóa làng quê là tín ngưỡng tôn giáo. Hàng ngàn năm nay, hình ảnh những mái chùa cổ kính đã gắn với xóm thôn Việt Nam, đấy là nơi mơ ước nguyện cầu, nơi nương náu của những gì sâu thẳm trong cõi tâm linh người Việt. Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Nguyễn Bính đã tả đúng cái tĩnh lặng, thanh sạch - nét “thần” của một ngôi chùa ở làng quê: Gió chiều cầu nguyện đâu đây/ Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu / Sư già quét lá sau chùa/ Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông
  Nếu ở Kinh Bắc xưa, mùa xuân là hội quan họ thì ở các làng quê Bắc Bộ, mùa xuân là ngày hội của những đêm hát chèo, cũng là mùa của các trò vui thật giản dị mà thanh thản, sảng khoái ở chốn đồng quê: Hiu hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi/ Ăn gỏi cá, đánh cờ người/ Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân. (Anh về quê cũ)
  Nguyễn Bính không chỉ tài hoa khi dựng cảnh những ngày hội quê mà ông còn rất am hiểu và khéo léo khi đặc tả những nét văn hóa làng quê qua cách ăn mặc, qua những nét dáng bề ngoài của người quê. Đây là hình ảnh một chú bé mà người ta có thể bắt gặp đâu đó trên đường thôn: Tuổi thơ tóc để gáo dừa/ Tuổi thơ mẹ bắt đeo bùa cần ong (Tiền và lá)
Đây là trang phục ngày thường rất mộc mạc mà duyên dáng, đáng yêu của cô gái quê - tất cả cùng in sâu trong tâm khảm của anh trai làng đang ghen bóng ghen gió: Nào đâu cái yếm lụa sồi? / Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? / Nào đâu cái áo tứ thân? / Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? (Chân quê)
Một nét đẹp văn hóa ở làng quê Việt Nam xa xưa là ước mơ về sự vinh hiển, là giấc mơ quan trạng. Giấc mơ ấy trở đi trở lại nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính: Thế rồi vua mở khoa thi/ Thế rồi quan trạng vinh quy qua làng (Quan trạng)
     Chồng tôi cưỡi ngựa vinh quy/ Hai bên có lính hầu đi dẹp đường (Thời trước)
Rõ ràng quan trạng đương trai/ Vua cho chạy ngựa ba ngày xem hoa  (Con nhà nho cũ)         
     Thời phong kiến xa xưa, quan trạng là một nho sinh giành được học vị cao nhất về khoa cử và được triều đình nhà vua “ân tứ’ ban cho cờ biển vinh quy, rồi được trọng dụng làm quan, hưởng cuộc đời đầy vinh hoa phú quý, bổng lộc cao sang. Có người đỗ quan trạng cũng là niềm vinh dự lớn nhất, là điều vẻ vang, đáng tự hào nhất của một làng quê. Phải chăng trong cuộc đời nhiều lam lũ, nhọc nhằn sau lũy tre làng, người ta muốn thay đổi kiếp sống thì chỉ có mỗi cách thực tế nhất và cũng cao sang nhất là đỗ đạt vinh quy như thế?
Nguyễn Bính yêu quê hương nhưng cũng là người tha hương rất nhiều năm trong đời. Sớm tiếp xúc với cuộc sống đô thị phồn hoa nhưng cũng rất lạnh lùng khắc nghiệt, rồi qua những ấm lạnh tình đời tình người nơi phương trời xa lạ, nhà thơ nhận ra bản thân mình không hòa nhập nổi với nó nên xót xa, ân hận, tiếc nhớ không nguôi về một quê hương thanh bình, tuyệt vời ân nghĩa. Trong ý nghĩa ấy, thơ tha hương của Nguyễn Bính không chỉ là những buồn thương của một con người xa xứ, nó còn là khát vọng tình yêu, hạnh phúc, yêu quê hương nồng nàn: Con đò thì nhớ sông xa/ Con người thì nhớ quê nhà bao nhiêu (Trải bao nhiêu núi sông rồi).
  Xa quê, cảm hứng chính của Nguyễn Bính là hoài niệm quê hương. Có một quê hương ở chốn xa xôi và có một quê hương trong lòng người xa quê. Tưởng như quá vãng bị một lớp bụi mờ phủ, nhưng chỉ cần hơi gió của tình quê lay động, lớp bụi ấy bay đi, là lại hiện lên nguyên vẹn chùm hoa xoan màu tím, hoa gạo đỏ tháng ba, dậu mồng tơi xanh rờn, đêm hội làng “Giời cao gió cả giăng như ban ngày”…
Ai xa quê mà chẳng nhớ thương quê cũ; nhất là khi cuộc sống hiện tại xung quanh quá u ám, bế tắc, ngột ngạt, những lời quê thấm đẫm hương đồng gió nội lại càng khiến người ta xúc động đến nao lòng. Giữa những kẻ tha hương, Nguyễn Bính đem lời quê ra kể, người ta lắng nghe không phải vì nó giống như thật mà vì đó là những kỷ niệm thiêng liêng về quê hương còn giữ lại trong tâm linh con người - quê hương là vẻ đẹp bất biến trong hoài niệm của người xa quê. Có lẽ vì thế mà thơ tha hương của Nguyễn Bính mang tính tượng trưng ước lệ rất cao: Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh/ Nên thơ, ôi cả xứ mình nên thơ!/ Hội xuân gió loạn đuôi cờ/ Làng xa vào đám nhặt thưa trống chèo  (Xuân về nhớ cố.
Thôn Vân có biếc có hồng/ Biếc trong nắng sớm, hồng trong vườn chiều/ Đê cao có đất thả diều/ iời cao lắm lắm có nhiều chim bay/ Quả lành nặng trĩu từng cây/ Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen  (Anh về quê cũ).
Nhớ quê đâu chỉ là hồi tưởng về cảnh quê, mà hơn thế, nhớ thương đau đớn đến quặn lòng là nỗi nhớ những người thân yêu. Nhà thơ xót xa khi nghĩ đến cha mẹ đã già yếu mà không có ai giúp đỡ trong công việc hàng ngày: “Cha dậm gạo, mẹ vần cơm - Có con con vắng ai làm thay cho?” - đấy đúng là tâm trạng của một người quê khi xa nhà. Nhà thơ nghĩ đến lẽ đời dâu bể, nghĩ đến bao chuyện vu vơ vô nghĩa trong cuộc sống hiện tại “Mẹ cha thì nhớ thương mình - Mình đi thương nhớ người tình xa xôi” mà càng thêm thương cha mẹ và cảm giác như mình có tội với song thân: Nhớ thương thày mẹ khôn cùng/ Lạy thày lạy mẹ thấu lòng cho con (Thư gửi thày mẹ).
  Có lần nhà thơ Tố Hữu viết: “Câu thơ hay làm cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người”. Đúng là những vần thơ tha hương của Nguyễn Bính đâu phải chỉ để hồi tưởng cảnh quê và giãi bày nỗi niềm của người xa quê, mà điều quan trọng hơn cả là Nguyễn Bính muốn đánh thức tình cảm quê hương trong mỗi người quê xa xứ đang lênh đênh góc bể chân trời. Đấy là tiếng hát tình quê cất lên theo một khía cạnh mới mang tính thời sự của buổi giao thời, khi xã hội Việt Nam đang chuyển dần theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhiều đô thị mới xuất hiện, kéo người ta ra khỏi tổ ấm gia đình, quê hương, lang thang kiếm sống khắp những phương trời xa. Cũng vì phải lang thang khắp nơi, có lăn lộn nếm trải trên đường đời, Nguyễn Bính mới tự rút ra những kinh nghiệm sống cho mình, do đó chất triết lý suy tư trong thơ tha hương đậm đặc hơn so với những mảng thơ khác, tạo cho ngòi bút Nguyễn Bính một dáng vẻ mới, sâu sắc hơn. Có những câu thơ rất cô đọng còn đứng lại với thời gian, như những chân lý đáng dể chiêm nghiệm: Biển tiền ôi biển bao la/ Mình không bẩn được vẫn là tay không (Anh về quê cũ).
Có thể nói, tình quê của Nguyễn Bính không nhạt dần theo những năm tháng tha hương, trái lại, càng đậm đà hơn. Chính là trong sự cọ sát với môi trường hiện đại, Nguyễn Bính đã đưa được vào thơ không chỉ tâm sự của mình mà còn của thời đại trong xã hội đương thời - một xã hội với bao kiếp người trôi dạt, bao buồn thương bế tắc, bao khát khao hạnh phúc, bao tình yêu tha thiết với xứ sở quê hương./.
4.3, Đặc điểm cái tôi trong thơ Nguyễn Bính
Nguyễn Bính được mệnh danh là thi sĩ của tình quê, thi sĩ “chân quê”. Mồ côi mẹ rất sớm, mười ba, mười bốn tuổi, Nguyễn Bính phải theo chân anh cả (nhà viết kịch Trúc Đường) ra Hà Nội, Hải Phòng kiếm sống, rồi sau đó vào Huế, vào tận Sài Gòn…sống “kiếp con chim lìa đàn”. Trót “Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh thành” (Hoa với rượu) nhưng Nguyễn Bính lại thấy “Bơ vơ trong xứ người xa lạ” (Lá thư về Bắc), xa lạ với văn minh đô thị đến cùng cuộc biến thiên “mưa Âu gió Mỹ”, bày tỏ thái độ bất hoà với thực tại, tìm về với vẻ đẹp “thời trước” của đồng đất mình, quê hương mình. Đó là hai trạng thái tinh thần – cảm xúc chủ đạo trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng.
Hai trạng thái cái tôi lãng mạn của thi sĩ Nguyễn Bính (một cái tôi khắc khoải hướng về không gian làng quê đã mất và một cái tôi lạc loài trong không gian đô thị xa lạ) có thể thấy rõ nhất trong những bài thơ xuân. Chính bởi vào xuân là lúc làng quê tưng bừng sự sống, sức sống hơn lúc nào hết và cũng chính độ xuân gợi nhắc cho người tha hương nỗi niềm sầu xứ hơn bao giờ hết. Điểm lại những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Bính, nhiều bài nói trực tiếp đến xuân và Tết như “Mưa xuân”, “Mùa xuân xanh”, “Xuân về”, “Thơ xuân”, “Nhạc xuân”, “Gái xuân”, “Tết của mẹ tôi”, “Xuân tha hương”…, và cả những thi đề tuy không có chữ “xuân” nhưng ý thơ vẫn xoay quanh đề tài mùa xuân (“Cô lái đò”, “Sao chẳng về đây?”, “Hoa với rượu”, “Lá thư về Bắc”, “Hành phương Nam”…) thì ai cũng phải công nhận Nguyễn Bính, trong số các nhà thơ hiện đại, là một trong những người viết nhiều về xuân và Tết hơn cả. 
Các nhà phê bình văn học gọi ông là nhà thơ của hồn quê, nhà thơ chân quê, ca sĩ của đồng ruộng. Bởi tấm lòng, tình cảm gắn bó máu thịt của ông với quê hương luôn hiện hữu trong những câu thơ, bài thơ đầy ắp những hình ảnh gần gũi, thân quen về cuộc sống nơi thôn dã. Từ lũy tre làng, giậu mùng tơi, giàn trầu, hàng cau liên phòng đến lối ngõ trải rơm, màu hoa đại, hương gạo tám thơm, men nồng rượu nếp… tất cả đều đẹp đẽ, nên thơ qua cái nhìn, cách nghĩ và cảm xúc của ông. Trên nền những bức tranh quê tươi sáng, thơ mộng ấy, cuộc sống sinh hoạt của người thôn quê được ông khắc họa thật sinh động, rõ nét. Đến với thơ ông, người đọc như được sống trong không gian văn hóa làng quê Bắc Bộ đậm đà bản sắc với những ngày Tết cổ truyền, hội làng, đám hát thâu đêm, những phong tục tập quán, trò chơi, nếp sống xa xưa. Đó là hương vị truyền thống trong “Tết của mẹ tôi”: “Sáng nay mồng một sớm tinh sương/ Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường/ Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi/ Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương”. Đó là cảnh một buổi đi lễ chùa trong “Xuân về”: “Trên đường cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ, khăn thâm trẩy hội chùa/ Gậy trúc dắt bà già tóc bạc/ Tay lần tràng hạt, miệng nam mô”. Khi vẽ nên những cảnh quê, tình quê mộc mạc, thuần khiết, ngôn ngữ thơ ông cũng giản dị, tự nhiên như lời nói của người dân quê trong đời sống dân dã, vậy mà vẫn làm chúng ta xao xuyến, bâng khuâng.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã thật chí lý khi cho rằng: “Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Người đọc mọi lứa tuổi thuộc thơ Nguyễn Bính, bởi nhiều câu thơ của ông không chỉ gợi được cảnh quê mà còn diễn tả chân thành và xúc động hồn quê bình dị mà thiêng liêng, sâu nặng. Có những bài thơ của ông đã trở thành bài hát ru con, ru cháu, được các bà, các mẹ ngâm nga bên cánh võng để thổ lộ, giãi bày nỗi niềm của chính mình. Nguyễn Bính yêu tha thiết quê hương nhưng cũng là người có nhiều năm tha hương trong cuộc đời. Và như một lẽ tự nhiên, càng xa cách, nỗi nhớ và tình yêu quê hương càng đau đáu, khắc khoải. Nhiều bài thơ ông viết về những người mẹ quê nghèo, những người chị đảm đang, nhân hậu như một phần hình bóng quê hương lam lũ mà thắm đượm nghĩa tình. Nhà thơ xót xa trước nỗi cô đơn của người mẹ: “Xóm Tây bà lão lưng còng/ Có hai con gái lấy chồng cả hai/ Gió thu thở ngắn, than dài/ Bà đem áo rét phơi ngoài cửa thưa”. Giữa biết bao bóng người trên sân ga, nhà thơ vẫn nhìn thấu nỗi lòng quặn thắt của người mẹ đưa tiễn con đi trấn ải xa: “Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng/ Lưng còng đổ bóng xuống sân ga”. Ông sẻ chia nỗi niềm với người mẹ gắng gượng vui lo cho con gái đi lấy chồng, để rồi khi còn lại một mình mới vỡ òa những buồn tủi: “Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc/ Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi”. Và nhà thơ khiến ta nhói lòng khi viết về chính cha mẹ mình: “Con đi mười mấy năm trời/ Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương/ Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương/ Cầm như đồng kẽm, ngang đường bỏ rơi”. Riêng ở lĩnh vực thơ tình, Nguyễn Bính cũng có một vị trí xứng đáng, một giọng thơ đặc biệt. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Ngòi bút Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả những mối tình quê thơ và mộng”. Ta bắt gặp trong thơ ông những mối tình trong sáng của trai, gái nơi thôn quê nảy nở từ những ngày hội xuân, những đêm hát chèo, những sinh hoạt đời thường với rất nhiều cung bậc cảm xúc. Có những e ấp, ngại ngùng của cô gái quê vốn quen sống khép kín bên khung cửi: “Lòng thấy giăng tơ một mối tình/ Em ngừng thoi lại giữa tay xinh/ Hình như hai má em bừng đỏ/ Có lẽ là em nghĩ đến anh”. Có những hò hẹn, giận hờn, trách móc: “Chờ mãi anh sang, anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên đàng/ Năm tao, bảy tuyết anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Có những nhớ mong, tơ tưởng: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín nhớ, mười mong một người/ Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Có những tiếc nuối khi tình yêu dang dở: “Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà xa/ Bờ rào cây bưởi không hoa/ Qua bên nhà, thấy bên nhà vắng teo”. Và có cả những mãnh liệt, dâng trào như cảm xúc không thể kìm nén: “Hồn anh như hoa cỏ may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em”… Những tình cảm yêu thương trong thơ Nguyễn Bính dù là tình yêu đôi lứa hay tình yêu dành cho cha mẹ, gia đình, làng xóm đều thể hiện sự chân thành của cảm xúc nên dễ đi vào lòng người.
Tài năng của nhà thơ Nguyễn Bính đã được ghi nhận, tôn vinh bằng những đánh giá đầy trân trọng của bạn thơ, các nhà phê bình văn học và chính xác hơn hết là lòng yêu mến của bạn đọc nhiều thế hệ. Trải qua thời gian với biết bao thay đổi, những vần thơ của ông vẫn được nhắc đến bởi nó bồi đắp cho mỗi chúng ta lòng yêu thương, gợi nhắc chúng ta không quên quê hương, nguồn cội.
 Cái Tôi Thơ mới thường nghiêng về sự hả hê bởi được giải phóng khỏi cái Ta. Nếu cô đơn, thì thường là khi phải đối diện với vũ trụ mênh mông, khi không có một cái Tôi khác để gắn bó. Nguyễn Bính khác. Trước hết, về Nguyễn Bính mà nói bằng cô đơn, không ra. Nguyễn Bính là nỗi đơn côi. Khác nhau có một chữ, nhưng là hai hồn vía. Không phải ngẫu nhiên mà mặc cảm chia lìa, mặc cảm bơ vơ lại bám riết lấy tâm tư Nguyễn Bính suốt cả đời không chịu buông tha. Nhìn đâu cũng thấy chia lìa: "Con sào đẩy sóng thuyền nan lìa bờ", "Chị thương chị kiếp con chim lìa đàn", "Chán chường như lũ tàn quân lìa thành", "Những cuộc chia lìa khởi tự đây", "Anh em li tán lâu dần thành ra", "Lìa cành theo gió lá luồn qua song", "Sầu nghiêng theo cánh chim lìa tổ"... Nhìn đâu cũng thấy côi cút, đơn chiếc, vô định: "Hồn đơn chẳng có nơi nương tựa", "Hồn đơn quằn quại xác gầy", "Muôn vàn đơn chiếc đổ vào đầu tôi", "Một người đi mấy mươi người nhớ thương", "Ta đi nhưng biết về đâu chứ", "Anh đi đó ! Anh về đâu?", "Nào biết về đâu kẻ ngước xuôi", "Biết lạc về đâu lòng hỡi
   Nhưng, một khía cạnh rất đáng nói là: bi kịch của cái tôi kia không có tận cùng. Sinh ra từ cuộc tình đương giữa hồi dang dở giữa Đô thị và Thôn quê như thế, Nguyễn Bính đã cố chạy theo tìm sự cưu mang của từng phía, nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng. Thoạt đầu ánh sáng kinh thành huyễn hoặc, anh chàng chân quê đã tưởng có thể gửi mình vào đó, tìm thấy trong hứa hẹn của nó những vinh hoa. Nhưng cuối cùng, chỉ là phù hoa: "Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng / Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị". Chán chường, chàng tìm lại chốn quê. Nguyễn Bính về quê không phải như Đào Uyên Minh "qui khứ lai từ" bởi quá chán ngán cảnh luồn cúi nơi trường đào mận. Không phải như một nhà nho thành đạt và chán ngán, về quê theo lẽ xuất xử hành tàng, về ở ẩn lánh đời. Mà cái Tôi Nguyễn Bính về quê như một người suốt đời băn khoăn đi kiếm cách sống cho mình, suốt đời tìm kiếm công danh và chỗ đứng trong cái cuộc sống văn minh đô thị. Mà cuối cùng tay trắng vẫn hoàn tay trắng.
Công danh dở dang, duyên phận lỡ làng. Cố hương ngỡ bình lặng muôn đời là thế cũng không dung được một kẻ đã ngập hẳn về thôn ổ mà chẳng thể rửa sạch khỏi lòng mối sầu đô thị ăn sâu. Yêu lắm lắm những gì chân mộc của cố hương, nhưng giữa kẻ hồi hương và đất cũ đã có những ngăn cách vô hình không thể vượt qua: Không còn ai ở lại nhà / Hỏi còn ai nữa? để hoa đầy vườn / Trăng đầy ngõ, gió đầy thôn / Anh về quê cũ có buồn không anh?... Một lần lỡ bước sang ngang là đơn côi vĩnh viễn. Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Nó là một bi kịch không biên giới.
         Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh, khi phê bình về Nguyễn Bính, có viết: "Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số những nhà thông thái nghiên cứu". Thật vậy! Nhiều bài thơ của Nguyễn Bính mang vần điệu ca dao và rất dễ nhớ. Nguyễn Bính không dùng chữ trừu tượng hay cầu kỳ để viết nên những vần thơ để đờị Ông cũng không không dùng những triết lý cao siêu để nói lên những điều hiển nhiên trong cuộc sống. 
KẾT LUẬN
Trong thời đại thi ca của Việt Nam, phong trào Thơ Mới là một bước chuyển lớn đối với sự đổi mới của thơ ca, góp phần không nhỏ vào kho tàng thi ca của dân tộc. Ở thời đại ấy, nhiều nhà thơ tài hoa đã thể hiện được hồn thơ của mình, đem đến cho độc giả những nàng thơ trữ tình, sâu lắng, lãng mạn đến tận trái tim sâu, làm người ta thêm yêu những bóng hồng đầy chất thi vị. Mỗi người mỗi phong cách, nhưng ở họ đều thể hiện sự kế thừa tinh hoa truyền thống kết hợp với sự canh tân thi ca để làm nên những vần thơ sống động, ghi dấu ấn mãi trong tâm trí những người yêu thơ.
Nguyễn Bính, nhà thơ được mệnh danh là nhà thơ của nông thôn, “chân quê” có phong cách thơ giản dị, gần gũi với đời sống của những người nông dân chất phác, thật thà. Nàng thơ của ông là những cô gái duyên thắm má đào, e thẹn khi đề cập đến tình duyên, yêu thương không trọn vẹn, tương tư đến tận trời xanh cũng thấu.
Thơ Nguyễn Bính có cái tôi bình dị, viết về nông thôn, đến nỗi người đời gọi ông bằng một cái tên đặc biệt “ thi sĩ chân quê”. Cái tôi gần gũi, mộc mạc, đi vào đời sống của những người nông dân, tình yêu trong thơ được thể hiện qua những vần thơ dịu dàng, đậm đà bản sắc dân tộc, đôi khi kết hợp một chút phá cách mới lạ của “cái yêu mới mẻ, hiện đại” của phương Tây,  đã làm cho ông sống mãi trong lòng những người yêu thơ tình, ghi dấu mãi vào kho tàng thi ca dân tộc một nhà thơ tài hoa, lãng tử. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân Việt Nam – NXB Văn học, 2008.
2.     Tô Hoài – Lời giới thiệu, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986.
3.     Chu Văn Sơn – Ba đỉnh cao Thơ Mới – NXB Giáo dục, 2006.
4.     Chu Văn – Lời bạt, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB Văn học, 1986.
5.     Hoàng Xuân, Nguyễn Bính – Thơ và đời, NXB Văn học, 2003.
Tài liệu tham khảo từ Internet:
1.   http://maxreading.com/sach-hay/tho-nguyen-binh
2.   http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=8328
3.   http://www.dactrung.com/Bai-bv-403-Tan_Man_Ve_Nguyen_Binh.aspx
4.   http://vanhien.vn/vi/news/Dien-dan-van-nghe-VN
5.   http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/50/phong-trao-tho-moi-nhu-mot-dien-ngon-lich-su--
6.   http://newvietart.com/index4.886.html 
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
SINH VIÊN THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ
1.LÊ HỒNG NHỊ
- Làm phần 4.1 của phần 4
- Tổng hợp ,chỉnh sửa Word
- Thuyết trình trên lớp
2.NGUYỄN HUỆ
-Làm phần 3
- Thuyết trình trên lớp
3.NGUYỄN THỊ TRÚC HUỆ

-Làm phần 4.2 của phần 4
- Làm Power point
4. NGUYỄN VĂN THUẬN

-Làm phần 1,2

5.NGUYỄN THỊ VÂN
-Làm phần 4.3 của phần 4