Tác giả: Coleen Mc Cullough
Ngày 8 tháng 12 năm 1915, Meggie Cleary bước vào năm thứ tư của tuổi
đời. Dọn dẹp xong buổi ăn sáng, không nói một lời và hơi đột ngột, mẹ của
Meggie đặt lên hai tay cô một cái hộp gói trong giấy màu hạt dẻ rồi bảo cô
bé ra ngoài sân. Nghe lời mẹ, Meggie ra ngồi ngay trước cửa nhà, sau bụi
cây đậu chổi, rồi vội vàng mở chiếc hộp. Mấy ngón tay cô bé vụng về, hơn
nữa, giấy gói rất dày. Nhưng ngay lúc đó, một mùi thơm thoang thoảng làm
Meggie nghĩ đến cửa hàng bách hóa Wahine. Cô bé đoán ngay rằng, dù
bên trong chứa đựng thứ gì đi nữa, chắc chắn món quà ấy cũng được mua
từ cửa hàng bách hóa chứ không phải do ở nhà làm hay do ai đó đã cho.
Mở hết lớp giấy bên ngoài, Meggie nhận ra một cái gì đó thật mịn và óng
ánh ở góc hộp - Cô bé xé toạc ra.
- Agnès! Ồ Agnès! - cô bé thì thầm một cách âu yếm, mắt sáng lên khi nhìn
thấy một con búp bê nằm êm ái trong mớ giấy vụn.
Đúng là một phép mầu. Một phép mầu thật. Từ trước đến nay Meggie mới
đến cửa hàng Wahine chỉ một lần thôi, hồi tháng 5 vừa rồi, cô bé được cha
mẹ thưởng vì đã tỏ ra rất ngoan.
Lần đó trên chiếc xe bò có mui, cô bé phải hết sức cố gắng mới ngồi yên
được bên cạnh mẹ. Vui quá, Meggie không kịp nhìn thấy gì và cũng không
nhớ gì cả, ngoài Agnès, con búp bê tuyệt đẹp mắc chiếc váy xòe rộng bằng
xa tanh hồng kết ren chung quanh, được đặt trên quầy của cửa hàng bách
hóa. Ngay lúc ấy, Meggie kín đáo đặt tên Agnès cho con búp bê xinh đẹp,
cái tên khá lịch sự mà cô bé biết. Vậy mà nhiều tháng sau, lòng thèm muốn
ấy của Meggie cũng chỉ là mơ ước. Meggie chưa bao giờ có búp bê và
không hề tưởng tượng rằng một bé gái như mình ngày nào đó sẽ có một con
búp bê. Lâu nay cô bé thường vui thích với những thứ đồ chơi mà các anh
trai của cô vứt bỏ, chẳng hạn như những cái còi, cái ná bắn thun và những
hình lính xù xì. Làm sao cô dám mơ ước được chơi với Angès.
Tay vuốt nhẹ lên chiếc áo của búp bê, chiếc áo đẹp nhất trong số những áomà cô béthấy phụ nữ thường mặc, Meggie bế nhẹ Angès lên. Tay và chân
của búp bê đều cử động được, cổ và thân mình cũng thế. Màu tóc vàng óng
ánh có điểm những hạt trai, khuôn mặt làm bằng sứ được vẽ rất khéo và
đẹp. Mắt búp bê màu xanh, sinh động đến kinh ngạc. Đôi mắt ấy sáng lên
qua hai hàng mi cong vút. Khi đặt Angès nằm xuống, Meggie khám phá ra
rằng búp bê còn biết nhắm mắt lại. Phía trên gò má cao màu hồng có một
nốt ruồi. Hai môi hơi hé ra cho thấy những chiếc răng màu trắng thật nhỏ.
Meggie đặt búp bê trên đầu gối, tìm một chỗ ngồi êm ái rồi nhìn ngắm một
cách say mệ
Trong khi Meggie vẫn ngồi như thế thì sau bụi cây đậu chổi, Jack và
Hughie đang chơi đùa bên cạnh đám cỏ mọc cao sát hàng rào. Cả hai nhìn
thấy mái tóc màu hung đặc biệt của Meggie, màu tóc đúng là của dòng họ
Cleary, ngoại trừ Frank là có tóc màu khác.
Jack vừa thúc cùi chỏ vào anh mình vừa liến thoắng chỉ Meggiẹ Cả hai
đang chơi trò quân lính truy lùng một thổ dân Maori phản bội. Meggie
không để ý đến hai anh và vẫn đắm nhìn Agnès thân yêu, miệng huýt gió
nho nhỏ những âm thanh quen thuộc.
- Meggie, mày đang cầm gì đó? Jack vừa la to vừa nhào tới - Đưa tao xem.
- Ừ, đưa xem.
Hughie nói thêm vào, vừa cười khúc khích vừa tìm cách chặn Meggie
không cho chạy thoát.
Cô bé ôm chặc búp bê vào ngực và lắc đầu.
- Không, búp bê của em. Món quà sinh nhật của em.
- Cứ đưa bọn tao xem. Bọn tao chỉ muốn xem qua thôi.
Trong niềm vui và hãnh diện vừa được mẹ tặng quà, cô bé đưa búp bê ra
khoe:
- Các anh xem này, nó đẹp quá. Nó tên Agnès đó.
- Agnès? Agnès? Giọng Jack chế diễu. Tên gì mà tồi thế. Tại sao không
gọi nó là Margaret hay Betty
- Không thể gọi khác hơn vì nó là Agnès!
Hughie nhìn cánh tay con búp bê cử động, cậu ta huýt gió và nói:- Jack nhìn xem, tay nó cử động được đấy.
- Cử động làm sao? Đưa tao xem.
- Không! Cô bé la lên và lại ôm búp bê sát vào ngực, nước mắt sắp trào
ra. - Không, các anh làm hư búp bê của em... A, Jack, đừng đụng vào nó,
anh sẽ làm gãy búp bê của em mất.
Hai bàn tay rám nắng, dơ bẩn của Jack chụp lên cổ tay Meggie, siết thật
mạnh.
- Đừng mè nheo nữa, tao mách với anh Bob bây giờ.
Jack siết mạnh hai cổ tay của Meggie, trong khi Hughie túm lấy chiếc váy
của búp bê kéo ra.
- Đưa đây - giọng Jack nhỏ nhẹ lại. Nếu không, tao sẽ siết mạnh đau lắm
đó.
- Không, không, Jack! Em năn nỉ anh. Anh làm hỏng búp bê bây giờ. Em
van anh để cho nó yên. Đừng lấy của em...
Dù hai tay bị siết càng lúc càng mạnh, cô bé vẫn không chịu buông con
búp bê ra. Meggie khóc to lên, chân đá vào Jack.
- Đã lấy được rồi! Hughie reo lên đắc thắng khi búp bê vừa vuột khỏi tay
Meggie. Chiếc áo ngoài và bên trong cả chiếc quần lót cũng đều tơi tả.
Con búp bê hoàn toàn trần trụi. Chúng nắm hai chân búp bê kéo ngược ra
phía sau, còn cái đầu chúng quay đủ hướng và không thèm chú ý đến
Meggie khóc một mình. Trong gia đình họ Cleary vẫn thế, ai mà không có
khả năng đối phó thì chịu chứ không có ai hổ trợ hay thương hại. Nguyên
tắc ấy cũng áp dụng cho cả các cô gái. Từng chùm tóc vàng của con búp bê
bị vứt ra rải đầy dưới đất, còn các hạt trai nhấp nhánh văng mất trong cỏ,
một chiếc giày dơ bẩn vô tình dẫm lên chiếc váy nằm trên đất. Meggie quỳ
gối xuống, hai tay run rẩy lượm lại những mảnh áo quần bé nhỏ của búp
bê, rồi mò mẫn trong đám cỏ mong tìm lại những hạt trai. Nước mắt làm
cho cô bé không còn nhìn thấy gì nữa, trái tim đau nhói một cách lạ lùng,
vì rằng từ trước đến nay, chưa bao giờ cô bé lại cảm nhận một điều gì đó
có thể gọi là đau đớn.
__________________
Chương 2Frank nhúng thanh sắt đỏ vào nước lạnh gây nên một tiếng xèo, rồi đứng
thẳng người lên. Anh không còn đau lưng nữa. Có lẽ vì đã quen công việc
ở lò rèn. Chỉ cần sáu tháng thôi - cha anh nói như thế. Nhưng Frank hiểu là
biết bao nhiêu năm tháng trôi qua từ khi anh làm quen với nơi đây; anh đã
đếm thời gian trong oán giận và hận thù. Quẳng chiếc búa vào thùng, bàn
tay run run, Frank vuốt ngược mái tóc phủ kín vầng trán rồi cởi tấm tạp đề
cũ mèm bằng da. Chiếc áo sơ mi nằm chờ Frank trên đống rơm, anh bước
đi nặng nề, dừng lại một lúc và ánh mắt mất hút qua một khe hở của nhà
kho. Mắt anh đen, mở trừng trừng nhìn về hướng ấy.
Dáng người hơi thấp nhỏ, khoảng một thước sáu mươi, Frank gầy như
những đứa con trai đang lớn, nhưng vai và tay trần của anh đều gân guốc vì
cầm búa lâu ngày. Nước da hơi xanh, mịn, bóng loáng mồ hôi. Tóc và cặp
mắt đen lánh có cái gì đó xa lạ vì rằng đôi môi dày và cái mũi thô thẳng
không phảng phất chút nào những nét chung nhất của gia đình này. Ở mẹ và
Frank hình như có dòng máu Maori. Frank gần 16 tuổi, Bob 11, Jack 10,
Hughie 9, Stuart 5 và cô bé Meggie... Frank nhớ ra hôm nay ngày 8 tháng
12 Meggie vừa tròn 4 tuổi. Anh mặc áo vào và rời nhà kho.
Căn nhà của gia đình Cleary nằm trên một ngọn đồi cao hơn nhà kho và
chuồng ngựa chừng ba mươi mét. Hầu hết nhà cửa ở Tây Tây Lan được
xây bằng gỗ, không có lầu, dài và rộng để khi có động đất thì không bị sập
tất cả. Chung quanh nhà mọc đầy những cây đậu chổi, mùa này trĩu nặng
những bông vàng; cỏ mọc bao la, xanh rì như phần nhiều các đồng cỏ nuôi
súc vật. Ngay giữa mùa đông, có những mảng tuyết suốt cả ngày không tan
vì rợp bóng mát, cỏ vẫn không vàng úa. Rồi mùa hè dài và dịu dàng mang
trả lại cho thiên nhiên một màu xanh đậm. Mưa cũng không quá nặng hạt để
có thể làm gã cả những loài cây mảnh khảnh nhất. Tai họa ở Tây Tây Lan
gầm lên từ trong lòng đất chứ không bao giờ sa xuống từ trên trời. Bao giờ
cũng thế, con người sống ở nơi đây như luôn ở trong một đợi chờ thấp
thỏm trước sự chuyển động, tưởng chừng nghe thấy dưới chân mình những
tiếng âm thanh không ngớt vang dội từ lòng đất. Vì rằng bên trong lòng đất
ẩn chứa một sức mạnh kinh hoàng, một sức mạnh có biên độ dữ dội đến
đỗi cách đấy ba mươi năm, một quả núi nguyên vẹn đã bị xóa mất hoàntoàn.
Dù thế, đất ở đây thật hiền hòa, hiếu khách. Từ nhà nhìn ra xa là một cánh
đồng xanh như màu ngọc bích trên chiếc nhẫn đính hôn của Fiona Cleary.
Đường viền của các ngọn đồi vẽ lên nền trời màu xanh nhạt; ngọn núi
Egmont cao ba ngàn mét như muốn đâm thủng các tầng mây. Sườn núi hai
bên khoác màu trắng của tuyết hết sức cân đối khiến cho Frank vội vã vì
anh nhớ lời cha dặn không được rời bỏ lò rèn. Lệnh của cha anh lúc nào
cũng nghiêm khắc. Đi vòng vào nhà, Frank bắt gặp mấy đứa em.
Chính Frank đã đưa mẹ đi Wahine để mua búp bê cho Meggie, tuy nhiên
anh đã phải tự hỏi điều gì đã phải thúc đẩy mẹ anh chịu tiêu xài như thế.
Với mẹ, một món quà sinh nhật phải là một thứ gì có ích lợi cho cuộc sống
hiện tại; gia đình không dư dả tiền để phung phí. Không bao giờ mẹ anh
mua đồ chơi cho bất cứ ai để làm quà sinh nhật. Các con của bà nhân ngày
này đều nhận được quần áo. Ngày sinh nhật hoặc Noel là dịp để sắm thêm
món gì đó cho tủ áo quần còn rất trống trải. Có lẽ mẹ đã bắt gặp cái nhìn
thèm muốn của Meggie trong lần ra tỉnh. Khi Frank hỏi mẹ về quyết định
bất thường này, bà chỉ nói đôi ba câu về niềm mong ước của mấy cô bé có
được con búp bê, rồi bà chuyển sang đề tài khác.
Giữa lối đi, Jack và Hughie đang giằng co, cả hai đứa đang nắm tay chân
con búp bê một cách thô bạo. Frank chỉ nhìn thấy Meggie từ phía sau lưng,
cô bé đang đứng như trời trồng nhìn hai anh mình dằn vặt Agnès.
- Đồ qui? sứ, bẩn thỉu. Frank quát.
Jack và Hughie nhanh chân, biến ngay và bỏ lại con búp bệ Khi Frank nổi
nóng thì khôn hồn bỏ đi nơi khác.
- Tao mà bắt gặp tụi bây rớ vào con búp bê lần nữa, thì tụi bây lảnh ngay
một thanh sắt đỏ vào mông, đồ thối tha! Frank hét lên.
Frank khom người xuống, hai tay đặt lên vai Meggie lay nhẹ.
- Thôi! thôi! có gì đâu mà khóc! Đừng sợ. Tụi nó bỏ đi hết rồi và không
bao giờ dám sờ vào con búp bê của em đâu. Anh hứa với em mà. Bây giờ
em hãy tặng cho anh một nụ cười sinh nhật đi nào...
Mặt cô bé như sưng, mí mắt phồng lên. Cô nhìn Frank trân trân bằng đôi
mắt nâu, mở to, chứa đầy bi kịch vừa xảy ra và cô bé không nói nên lời.Frank lấy từ trong túi quần một chiếc khăn bẩn, lau mặt em gái một cách
vụng về, rồi đặt khăn lên mũi bảo:
- Hỉ mũi đi cưng.
Cô bé nghe lời, hết khóc nhưng tiếng nấc vẫn chưa dứt.
- Frank - Frank - Frank! Mấy ảnh... đã lấy... Agnès của em! Tóc của Agnès
bị rứt ra hết rồi và bị mất cả những hạt trai xinh đẹp. Frank, mấy hạt trai
đó rơi trong cỏ đây nè... nhưng em tìm không ra.
Rồi cô bé lại khóc. Giọt nước mắt rơi xuống tay Frank. Anh đưa tay lên
nhìn và lấy lưỡi liếm.
- Bây giờ phải tìm lại mấy hạt trai. Nhưng em sẽ không tìm thấy nếu cứ
khóc mãi. Còn chuyện này nữa, sao em vẫn ngọng nghịu như một em bé
mới biết nói? Hỉ mũi nữa đi và nhặt Agnès tội nghiệp của em lên. Nếu em
không mặc ngay quần áo vào cho nó, nó sẽ bị cảm nắng bây giờ.
Frank đặt Meggie ngồi xuống bên lối đi rồi dịu dàng trao cho cô bé cho
búp bệ Xong cậu ta vẹt cỏ đi tìm hạt trai, không mấy chốc vừa reo lên một
cách đắc thắng vừa giơ cao cho Meggie xem hạt trai mới tìm được.
- Đây mới chỉ là hạt thứ nhất. Em chờ xem hai anh em mình sẽ tìm lại đủ
tất cả.
Meggie nhìn người anh cả của mình bằng đôi mắt ngưởng mộ trong khi
Frank tiếp tục vẹt cỏ, thỉnh thoảng đưa lên cao khoe một hạt trai vừa tìm
được. Bây giờ Meggie bỗng nhớ lại làn da của Agnès rất mỏnh dễ bị ánh
mặt trời thiêu đốt, thế là cô bé chăm chú lo mặc quần áo lại cho búp bê.
Thật ra búp bê cũng không mang một vết thương nào đáng kể, tóc chỉ rối
lên, tay chân dơ bẩn nhưng vẫn cử động được bình thường. Trên mái tóc
của Meggie ở mỗi bên có chiếc lược cài, cô bé lấy xuống một cái để chải
tóc cho búp bê. Vụng về, cô bé làm một chiếc nơ lớn trên đầu của Agnès
bung ra. Thảm kịch. Tất cả tóc tai Agnès đều sút hết và dính trên chiếc
lược cài. Phía trên cái trán rộng của búp bê chẳng có gì khác. Không có
đầu, không có xương sọ Chỉ có một lỗ trống tác hoác. Meggie run rẩy gần
như hoảng hốt, nhưng mắt vẫn nhìn vào phía trong lỗ trống. Những đường
nét lồi lõm của mắt, mũi, miệng nhìn từ bên trong thật khiếp đảm, nhất là
hai con mắt của Agnès chỉ là hai lỗ sâu hoắm, có một sợi dây kẽm xuyênqua...
Tiếng hét chát chúa của Meggie không phải là tiếng hét của trẻ thơ. Meggie
quăng Agnès xuống đất rồi tiếp tục la, hai tay ôm mặt, run rẩy. Frank đến
gỡ các ngón tay của Meggie rồi bế em gái vào lòng, đặt đầu cô bé vào chỗ
êm ả nhất giữa cổ và vai mình. Cô bé càng thu mình sát vào Frank, tìm
kiếm nơi người an niềm an ủi, cho đến lúc cơn xúc động giảm xuống, cô bé
mới ngửi thấy cái mùi dể chịu từ thân người của Frank, đó là mùi ngựa,
mùi mồ hôi và sắt nung đỏ.
Khi Meggie yên lòng trở lại, Frank hỏi em gái của mình nguyên do của sự
hoảng hốt. Anh ta nhặt búp bê lên và đau xót nhìn thấy cái đầu trống rỗng
và cố nhớ xem trong cái thế giới tuổi thơ của mình có bao giờ xảy ra nổi
khiếp sợ lạ lùng như thế không. Anh nhớ lại hình ảnh đáng ghét lởn vởn
như những bóng ma, những tiếng nói xì xào và những cái nhìn ghét bỏ. Còn
gương mặt của mẹ nhăn nhó, khắc khổ, bàn tay của mẹ run rẩy nắm chặt lấy
tay mình, người căng thẳng.
Còn Meggie đã thấy gì mà hoảng sợ như thế? Anh biết rằng Meggie sẽ ít
hoảng hốt hơn nếu Agnès đáng thương bị chảy máu khi tóc bị rứt ra. Dù
cho máu có thật. Vì rằng trong gia đình họ Cleary không có tuần nào là
tránh được chuyện người này hay người nọ bị đổ máu.
Meggie nói thật nhỏ:
- Em sợ hai con mắt của nó - Trong khi nói, Meggie không dám nhìn con
búp bê.
- Không Meggie, đừng sợ, nó đẹp tuyệt, một kỳ quan.
Frank cúi mặt vào mái tóc của em gái - mái tóc đẹp, dày và sáng rực. Phải
mất nửa tiếng đồng hồ vỗ về, Frank mới thuyết phục được Meggie chịu
quay lưng lại nhìn Agnès và thêm một khoảng thời gian như thế để dám
nhìn thẳng vào cái lỗ trống trên đầu búp bệ Frank chỉ cho em xem hai con
mắt của búp bê động đậy như thế nào, bằng cách nào mà hai mắt mở ra và
khép lại.
- Thôi bây giờ đã đến lúc anh em mình phải vào nhà.Frank bế Meggie bằng một cánh tay, con búp bê đặt giữa ngực Frank và
ngực Meggie. Mình sẽ nhờ mẹ chữa lại con búp bê. Mẹ sẽ giặt, ủi lại quần
áo cho nó và tìm cách dán lại bộ tóc. Còn anh sẽ đính lại hạt trai bằng
những cây kim găm, chắc chắn sẽ không bao giờ bị rơi ra nữa, mặc tình
cho em muốn chải kiểu tóc nào cho nó cũng được.
Fiona Cleary đang ở trong bếp gọt khoai. Đó là một người đàn bà có nước
da hơi nhợt nhạt, người thấp, nhưng gương mặt khá nghiêm và cứng rắn. Bà
có một dáng đẹp, một thân hình mảnh khảnh dù đã sáu lần sinh. Chiếc áo
dài vải trúc bâu gần chấm đất, thật sạch; một chiếc tạp dề lớn màu trắng,
hồ cứng, phía trên được buộc quanh cổ, phía dưới ôm thân người và cột
lại bằng một cái nơ thắt sau lưng thật gọn và đẹp. Từ sáng đến chiếu tối, bà
ở trong bếp và ở khu vườn phía sau nhà; đôi giày ống ngắn màu đen rất bẩn
của bà chỉ có một con đường quen thuộc lui tới bếp đến chỗ giặt quần áo,
từ vườn ra đến sào phơi quần áo rồi quay trở lại bếp.
Bà đặt con dao lên bàn, nhìn Frank và Meggie; môi bà bỗng mím lại:
- Meggie, mẹ chỉ cho phép con mặc chiếc áo đẹp nhất vào ngày chủ nhật
với một điều kiện: con không làm bẩn. Bây giờ con nhìn xem ra cái thứ gì.
Đúng là một đứa trẻ dơ dáy.
- Mẹ ơi, không phải lỗi của Meggie đâu - Frank bào chữa. Chính Jack và
Hughie đã giành lấy búp bê của Meggie để xem tay chân cử động như thế
nào. Con có hứa với Meggie là mẹ và con sẽ chữa lại con búp bê. Làm
được phải không mẹ?
- Con đưa mẹ xem - Fiona vừa nói vừa đưa tay ra. Bà là một người lặng
lẽ, ít nói, và có vẻ như sống không được tự nhiên. Những gì trong đầu bà
khó ai đoán biết, ngay cả chồng bà. Bà nhường quyền giáo dục các con cho
chồng và tuân thủ các mệnh lệnh của chồng mà không có một phản ứng hay
than phiền nào, ngoại trừ một vài trường hợp hết sức đặc biệt. Meggie
nghe các anh mình nói nhỏ với nhau rằng mẹ cũng sợ ba như chúng và nếu
thật thế thì mẹ đã giấu giếm cái sợ ấy dưới một lớp ngoài bình thản. Trên
nét mặt ấy cũng tỏ ra một chút bướng bỉnh. Bà không bao giờ cười, cũng
như không bao giờ nổi giận.
Fiona đặt con búp bê lên cái kệ gần bếp và nhìn Meggie:- Sáng mai mẹ sẽ giặt quần áo cho Agnès và sẽ chải tóc lại. Sau buổi ăn
chiều nay, anh con sẽ dán tóc và không chừng phải tắm cho nó sạch sẽ.
Meggie tỏ ra bằng lòng, nụ cười trên môi. Đôi lúc Meggie rất thèm được
nghe tiếng cười của mẹ nhưng điều đó lại không bao giờ có được. Meggie
cảm giác rằng mình đang chia xẻ với mẹ một điều gì đó rất đặc biệt mà cha
cô và các anh không thể hiểu; thế mà cô bé vẫn không thể nào khám phá
những gì chứa đựng bên trong con người mà Meggie hết lòng yêu thương.
Ngoài Frank, không một đứa con trong gia đình này hiểu được rằng Fiona
luôn ở trong tâm trạng mệt mỏi, sự mệt mỏi không dễ gì vơi bớt. Có quá
nhiều việc phải làm nhưng lại không có dư tiền và không đủ thìgiờ giải
quyết. Bà chỉ trông cậy vào đôi taỵ Ngay bây giờ cô bé cũng đã giúp mẹ
một số công việc vặt mãnh nhưng với bốn tuổi đầu, Meggie chưa đủ sức
làm nhẹ bớt gánh nặng của bà. Sáu đứa con trai, chỉ có một đứa con gái,
lại là con út. Những ai quen biết gia đình này đều thương hại bà nhưng
điều ấy đâu có làm thay đổi được gì. Cái giỏ đựng đồ cần vá lại đầy những
chiếc vớ chưa được mạng, có cả que đang dính vào một chiếc vớ khác
đang dở dang. Hughie đã cao nhòng không còn mặc được những cái áo
xănđai cũ; với Jack thì lại không đủ lớn để mặc áo của anh.
__________________
Chương 3
Padraic Cleary - tức Pađy - có mặt ở nhà trong tuần lễ sinh nhật của
Meggie là chuyện hoàn toàn tình cờ. Mùa cắt long cừu chưa đến, ông tạm
làm việc gần nhà, làm đất và trồng trọt. Pađy chuyên nghề cắt lông cừu,
làm thời vụ từ giữa mùa hè đến hết mùa đông, sau đó là thời gian cừu đẻ.
Thông thường Pađy tìm đủ việc làm để chịu đựng qua mùa xuân và những
tháng đầu mùa hè; ông phụ lo cho cừu đẻ, cày đất, vắt sữa bò, hai lần mỗi
ngày ở trang trại kế bên. ông sẵn sàng đi đến bất cứ đâu miễn có việc làm,
để mặc gia đình sống trong căn nhà tuy lớn nhưng có vẻ cổ xưa, một mình
vợ phải tự lo liệu các thứ. ông không thể làm khác hơn vì không có đất đai
riêng.
Mỗi ngày Pađy về nhà lúc mặt trời khuất bóng, đèn đã đốt lên, in rõ nhữngcái bóng đen nhảy múa trên trần. Tập hợp ở mái hiên nhà sau, mấy đứa con
trai chơi đùa với một con ếch, ngoại trừ Frank. Padraic dư biết con trai
lớn của ông hiện giờ ở đâu. ông nghe rõ tiếng bửa củi đều đặn. ông dừng
lại ở hiên nhà, đá vào mông Jack một cái và đưa tay xoa đầu Bob một cách
thương yêu:
- Ra phụ Frank chẻ củi, đồ làm biếng. Ráng làm xong trước khi mẹ đặt
bàn, bằng không tao sẽ cho một trận nên thân.
Padraic ra hiệu bằng đầu hướng về Fiona đang bận rộn bên cái chảo; ông
không bao giờ ôm hôn vợ trước mặt con cái. Những biểu hiện tình cảm ấy
theo ông nên giới hạn trong phòng ngủ của hai vợ chồng. Ông cởi đôi ủng
dính đầy bùn; Meggie mang đến cho cha một đôi dép. Ông nở nụ cười đón
lấy. Trong lòng luôn tràn ngập một tình cảm rất lạ như bị chinh phục mỗi
khi nhìn thấy Meggie con gái mình. Nó xinh quá, tóc đẹp làm sao; ông cầm
một loạn tóc lay nhẹ rồi thả xuống, thích thú nhìn con. Ông nhấc bổng
Meggie lên rồi hai cha con cùng ngả xuống chiếc ghế bành êm ái đặt ở
trong nhà bếp, đó là chiếc ghế bành thời Windsor, có lót gối dựa. Meggie
nằm gọn trong lòng cha, hai tay bá vào cổ, gương mặt tươi tắn ngước lên
hy vọng được đùa giỡn với trò chơi buổi tối - nhìn ánh sáng xuyên qua
những sợi râu ngắn màu vàng của chạ
- Em có thấy khỏe không Fiona? - Pađy hỏi thăm vợ.
- Bình thường thôi anh ạ. Còn anh đã làm xong cái hàng rào dưới kia
chưa?
- Xong rồi. Anh có thể bắt tay làm hàng rào phía trên vào sáng mai. Nhưng
lạy chúa, anh mệt quá.
- Em cũng thấy anh mệt... Roberson còn giao cho anh con ngựa cá tính bất
thường nữa phải không?
- Vẫn thế - Chẳng lẽ em nghĩ rằng hắn sẽ làm việc với con ngựa tồi ấy và
dành cho anh một con ngựa tốt hơn sao? Tay anh rã rời cả. Hình như con
ngựa cái này thuộc loại cứng đầu nhất ở Tân Tây Lan.
- Không quan trọng. Mấy con ngựa của ông già Roberson đều thuần cả.
Sắp tới anh sẽ làm với lão phải không?
- Chưa làm ngay đâu.Ông nhồi thuốc loại rẻ tiền vào cái tẩu rồi lấy một que củi mồi lửa từ trong
lò đang cháy đỏ. Sau đó ông lại ngả người lên ghế bành, rít mạnh một hơi.
- Con gái nói cho ba nghe con thấy thế nào khi được bốn tuổi - Pađy hỏi
con.
- Con thấy thích lắm ba ơi.
- Mẹ có cho con quà không?
- Tại sao ba và mẹ biết được Agnès mà chọn cho con?
- Agnès? (ông liếc nhìn qua Fiona, vừa mỉm cười vừa nhíu mày dò vợ).
Có phải tên của nó là Agnès?
- Dạ, Nó đẹp tuyệt ba ạ. Con muốn nhìn nó suốt ngày.
- Rất may là còn lại cái gì đó để nhìn - Fiona nói bằng giọng hơi cằn nhằn.
Jack và Hughie đã đoạt con búp bê trước khi Meggie có thời giờ nhìn
ngắm.
- Hừ! Lại chuyện khỉ của mấy thằng con trai, phải trị chúng. Con búp bê
con có hỏng nhiều hông?
- Không đến nỗi. Frank đã bắt gặp hai đứa kịp lúc.
- Frank? Làm sao nó lại có mặt ở đó? Nó phải ở dưới lò rèn suốt ngày kia
mà. Humter chờ nó làm xong cái cánh cửa nhỏ.
- Đúng là nó ở lò rèn suốt ngày - Fiona trả lời ngaỵ Nó chỉ lên nhà thoáng
một cái để lấy cái gì đó cần cho công việc. Pađy quả rất khắc nghiệt với
Frank.
- Ba ơi! Anh Frank dễ thương lắm. Không có anh ấy, Agnès đã chết rồi...
Sau bữa cơm, anh Frank sẽ dán lại tóc trên đầu con búp bê cho con.
- Vậy thì tốt. Pađy nói lầm nhầm bằng một giọng mỏi mệt.
Mấy đứa con của ông đều có tóc màu hung dày và lượn sóng, tuy vậy
không có đứa nào màu tóc lại rực sáng dữ dội như ông. Pađy thấp người,
chắc như thép, chân vòng kiềng do cả đời ngồi trên lưng ngựa, hai cánh tay
dài ra sau những năm làm công việc cắt lông cừu; ngực và hai cánh tay che
phủ bởi một lớp lông màu vàng. Đôi mắt màu xanh và thường nheo lại như
người thủy thủ hướng tầm nhìn ra xa. Gương mặt ông không có gì là kiểu
cách lại dễ gây cảm tình. Mũi tuyệt đẹp, đúng là mũi rômanh, khiến cho
những người đồng hương ái Nhĩ Lan của ông phải ghen tức. Ông vẫn còngiữ được giọng nói dịu dàng của vùng Galway, nhưng sau hai mươi năm
sống ở miền đất xa xôi này ông không còn nói năng nhanh nhẩu như xưa,
giống như một cái đồng hồ treo tường cũ kỹ cần được lên dây lại. Một
người hạnh phúc vì đã thành công trong cuộc sống lao động gay go vẫn
xứng đáng hơn nhiều người khác và mặc dù cai quản cằn nhà này bằng một
thứ kỷ luật sắt, ông vẫn được con cái yêu thương, ngoại trừ một đứa. Nếu
không đủ bánh mì cho mọi người, ông nhịn ăn; nếu phải chọn lựa giữa quần
áo mới cho bản thân hay cho một đứa con nào đó, ông bằng lòng mặc quần
áo cũ. Theo cách của ông, đó là một bằng chứng biểu thị tình thương dành
cho con, cụ thể hơn hàng biết bao nhiều cái hôn dễ dàng ban phát. Ông dễ
nóng giận và đã từng giết người. Nhưng sự may mắn đã nghiêng về phía
ông hôm đó; nạn nhân là một người Anh chủ nhân chiếc tàu đậu ở cảng Dun
Lacghaize.
Fiona xuất hiện ở ngưỡng cửa sau và nói lớn:
- Vào bàn ăn.
Mấy cậu con trai lần lượt bước vào; người cuối cùng là Frank, tay ôm bó
củi đến đặt vào chiếc thùng bên cạnh lò sưởi. Pađy để Meggie đứng xuống
rồi đến ngồi ở đầu bàn. Riêng Meggie ngồi trên một cái thùng gỗ đặt bên
cạnh cha. Fiona chia thức ăn vào dĩa một cách nhanh và gọn như một
người phục vụ chuyên nghiệp, rồi mang mỗi lượt hai dĩa cho gia đình,
trước hết cho Pađy rồi đến Frank, người sau cùng là Meggie. Bà lo cho
mình khi mọi người đã có phần.
- Lại cái món ragu chán chết! Stuart cằn nhằn; hai tay cầm dao và nĩa
nhưng mặt mày nhăn nhó.
- Ăn đi! Pađy ra lệnh.
Fiona cũng ngồi vào bàn và nuốt nhanh phần ăn của mình. Rồi bà đứng lên
đặt đầy bánh vào những cái dĩa mới. Đó là những bánh bích qui do bà làm,
bên trên rưới đường, mứt và một loại kem. Cũng chính bà mang một lượt
hai dĩa lên bàn. Khi xong đâu đấy rồi, Fiona mới ngồi thở và bắt đầu ăn
phần tráng miệng không có gì vội vã.- Ngon quá! Meggie la to lên. Bánh ngon quá!
Cô bé cắm sâu chiếc muỗng qua lớp kem.
- Bữa ăn này là mừng sinh nhật của con đó Meggie - Pađy vui vẻ nói - Do
đó mẹ đã làm món tráng miệng mà con thích nhất.
Sau đó Fiona mang ra một chiếc ấm thật lớn rồi rót cho mỗi người một
tách trà bốc hơi. Cả gia đình ngồi lại ở bàn nói chuyện, uống trà hoặc đọc
sách khoảng một tiếng đồng hồ nữa. Pađy ngậm ống vố, đầu nghiêng xuống
đọc quyển sách vừa mượn của thư viện lưu động. Fiona cứ lo châm đầy trà
vào mấy chiếc tách trong khi Bob cũng đọc. Những đứa con khác nhỏ hơn
chuẩn bị cho thời khóa biểu ngày mai.
Nhà trường đã trả học sinh về trong dịp nghỉ hè; các cậu con trai được tự
do tỏ ra rất hăng hái đảm nhận công việc được giao. Bob sơn phết lại bên
ngoài căn nhà, chỉ những nơi cần thiết; Jack và Hughie đi kiếm gỗ về để
làm củi, chăm sóc những phần phụ thuộc của nhà và vắt sửa; Stuart trồng
rau. Thỉnh thoảng Pađy ngưng đọc sách ngẩng đầu lên để bổ sung thêm cho
ai đó một công việc. Phần Fiona thì chẳng nói một lời, còn Frank ngồi im
trên ghế uống hết tách trà này sang tách trà khác.
Cuối cùng Fiona đưa mắt ra hiệu gọi Meggie đến ngồi trên một cái ghế
cao, bà chải tóc cho con gái, rồi bảo Meggie đi ngủ, cùng lúc với Stuart và
Hughiẹ Jack và Bob xin đi ra ngoài cho chó ăn; Frank đặt con búp bê trên
tấm ván kê làm bàn viết và bắt đầu dán lại tóc cho nó. Pađy vươn vai, gấp
sách lại rồi đặt cái ống vố trên chiếc ghế vỏ ốc lớn được dùng làm gạt tàn
thuốc.
- Thôi, tôi đi ngủ nha mẹ chúng nó.
- Chúc anh ngủ ngon, Pađy.
Fiona dọn dẹp thật nhanh, chén dĩa mang ra sau bếp rồi bắt đầu ngồi rửa.
Frank vùi đầu vào việc sửa con búp bê. Nhưng khi liếc nhìn chồng dĩa cao
ngất, cậu ta bật dậy và không nói một lời đi lấy nùi giẻ phụ mẹ. Frank biết
rằng nếu bị cha mình bắt gặp thì ông không tha đâu. Ông phân công rất dứt
khoát: đàn ông con trai không được rớ vào công việc của đàn bà. Biết thế,
nhưng Frank vẫn chờ cha mình vừa đi nghỉ là bắt tay vào phụ mẹ. Fiona
trìu mến nhìn con trai lớn:- Frank à, không có con mẹ không biết sẽ xoay sở ra sao. Nhưng đáng lý
con không nên nhúng tay vào. Sáng mai con sẽ mệt...
- Mẹ đừng lo. Rửa vài cái dĩa chẳng hao tốn bao nhiêu sức. Giúp mẹ đỡ
mệt một chút đâu phải là chuyện lớn.
- Công việc này là của mẹ, và chẳng có gì vất vả đâu Frank ạ.
- Con mong ngày nào đó nhà mình giàu có để có thể mướn thêm người phụ
mẹ.
- Con đừng mơ chuyện hão huyền.
Với tay lấy miếng giẻ, bà lau hai bàn tay ửng đỏ đầy xà phòng. Khi nhìn
Frank, trong đôi mắt của bà chứa đựng một nỗi âu lo mông lung. Bà đoán
ra sự bất mãn của con và nỗi cay đắng vượt qua mức độ nổi loạn bình
thường của một người lao động với số phận của mình.
- Frank, con không nên có những ước muốn điên rồ. Nó chỉ gây phiền lụy
cho con. Chúng ta thuộc tầng lớp cùng cực có nghĩa là chẳng bao giờ giàu
và cũng không có đầy tớ đâu con ạ. Con hãy bằng lòng với chính con và
những gì con có. Khi con nói ra những chuyện như thế con đã làm nhục cha
con đó. Ông không uống rượu, không chơi bời, ngượi lại làm việc rất cực
nhọc vì chúng ta. Ông không giữ riêng một xu cho ông, tất cả cho chúng ta
đấy thôi.
Đôi vai gân guốc của Frank nhúm lại, nét mặt sa sầm xuống:
- Mẹ ạ, nhưng tại sao muốn thoát khỏi số phần của mình lại bị trách cứ?
Con không thấy điều gì xấu nếu con mong cho mẹ có được một người giúp
việc để mẹ bớt cực.
- Điều đó chưa phải tốt đâu con, vì nó không xảy ra như thế! Con biết gia
đình mình không đủ tiền để lo cho con học tiếp và khi con không tiếp tục
đến trường thì làm thế nào con có thể tránh được cái số phận của một
người lao động cực nhọc... Giọng nói, cách ăn mặc, hai bàn tay chai của
con đã cho thấy con phải lao động mới nuôi sống được mình. Không có gì
là nhục khi có hai bàn tay chai. Cũng như cha con thường nói: khi có một
người có hai bàn tay như thế thì ai cũng biết ngay đó là một người lương
thiện.
Frank nhún vai không nói.Anh đứng dậy đặt con búp bê bằng sứ trên đầu tủ buýp phê, phía sau hộp
bánh bích quỵ Anh không sợ mấy thằng em trai có những hành động phá
hoại lần thứ hai; chúng ngán Frank nổi giận hơn là cha vì rằng bản chất của
Frank có một chút hung dữ. Nhưng cái tính xấu ấy không bao giờ Frank lộ
ra khi anh ở bên cạnh mẹ hay cô em gái Meggie.
Fiona nhìn Frank mà lòng đau nhói; dường như ở Frank có cái gì đó cô
đơn và tuyệt vọng và biết bao nhiều điều băn khoăn vây hãm. Phải chi
Pađy và Frank hòa thuận! Nhưng cả hai đều không nhìn mọi sự việc dưới
con mắt giống nhau. Họ hục hặc nhau thường xuyên.
Ngoại trừ một lần được đi chơi ở Wahine cách đây tám tháng. Meggie
chưa bao giờ đi xa hơn nhà kho và cái lò rèn ở dưới thung lũng. Cho nên
sáng đầu tiên Meggie đi học ở trường, cô bị căng thẳng đến đỗi nôn ra
ngoài những gì đã ăn sáng. Thế là Meggie được bế về phòng ngủ, tắm rửa
sạch sẽ và thay một bộ đồ khác. Bộ quần áo mới màu xanh đậm với cổ màu
trắng theo kiểu lính thủy, được thay bằng một cái áo choàng màu nâu xấu xí
với hàng nút cài trên cổ rất cao, khiến Meggie có cảm giác như bị nghẹt
thở.
Bob, Jack, Hughie và Stuart vừa chạy vừa nhảy cò cò đã ra tới ngoài cổng.
Lúc đó Fiona mới lo xong cho Meggie, bà thúc hối con gái mang theo thức
ăn sáng, bánh mì xăng-uých phết mứt, bỏ vào chiếc cặp cũ.
- Mau lên Meggie, mọi người trễ hết đấy. Bob ra đến đường quay đầu lại
la lớn.
Meggie chạy theo mấy anh đang khuất dần xa xa.
Từ nhà của họ Cleary đến thị trến Wahine khoảng chừng tám cây số.
Meggie nhìn cột cây số chỉ đường mà chân tay rụng rời. Tai của Bob lắng
nghe tiếng chuông trường đã đổ chưa, còn mắt thì liếc sang Meggie đầy
băn khoăn; cô bé đi bước thấp bước cao, thỉnh thoảng lại thở ra mệt nhọc.
Dưới mái tóc dày màu hung, gương mặt đỏ hồng của Meggie bỗng trở nên
nhợt nhạt. Bob giao chiếc cặp của mình cho Jack rồi đến bên em gái:
- Meggie, em ngồi lên lưng anh, anh cõng em đi cho nhanh.Bây giờ thì Meggie có thể khám phá Wahine trong tư thế thoải mái.
Wahine chẳng có gì nhiều để xem. Không rộn rịp bằng một thị trấn lớn, nhà
cửa trải đều hai bên con đường chính tráng nhựa. Khách sạn là tòa nhà
đáng chú ý nhất cũng chỉ có một tầng với một tấm lợp bằng vải chịu trên
hai cây trụ nhô ra sát đường để che nắng. Cửa hàng bách hóa là nơi đáng
chú ý kế đó. Thị trấn chưa có một nhà chứa xe, ô tô ở đây còn rất hiếm.
Trường học và Nhà thờ Anh quốc giáo đang được xây kế bên nhau, đối
diện với nhà thờ Thánh Tâm và trường của giáo xứ.
Khi anh em Cleary đi ngang cửa hàng bách hóa thì chuông trường của giáo
xứ vừa đổ, sau đó là chuông trường của thị trấn. Họ bước nhanh hơn vào
sân trường kịp lúc năm mươi học sinh khác bắt đầu xếp hàng trước một nữ
tu thấp người, tay cầm một cây roi mây dài. Đó là xơ Agatha.
Không bị lôi cuốn bởi những tiếng cười đùa khúc khích của đám học sinh,
Bob và các em mình đứng nghiêm trang rồi lần lượt đi theo hàng vào lớp
trong tiếng hát Niềm tin của các Thánh Tổ phụ của chúng ta, xơ Catherine
đệm dương cầm. Khi học sinh cuối cùng vào lớp, xơ Agatha mới rời khỏi
vị trí của mình. Bà đi thẳng đến anh em Cleary.
Meggia chưa bao giờ được nhìn thấy một nữ tu, nên miệng há hốc ra.
- Này Robert Cleary, tại sao em đi trễ? Giọng nói của xơ Agatha khô khan
như hét lên.
- Thưa dì, con xin lỗi - Bob trả lời vụng về, mắt dán chặt vào cây roi mây
đung đưa sau lưng xơ Agatha.
- Tại sao các em đi trễ? Bà hỏi gặng lần nữa.
- Con xin lỗi xơ
- Hôm nay là ngày tựu trường, Robert Cleary; tôi nghĩ rằng vào một dịp
như thế, các em phải ráng đi học đúng giờ chứ?
Meggie run sợ, tập trung can đảm rồi lên tiếng:
- Thưa xơ, đó là lỗi của con - Tiếng nói nhỏ như thì thầm và tắt nghẽn
trong cổ.
Cặp mắt màu xanh đầy đe dọa rời khỏi Bob, chuyển sang hướng Meggie
tưởng như xuyên thủng vào tận tim cô bé, trong khi đó Meggie vẫn hồn
nhiên giương đôi mắt nhìn vị nữ tu, hoàn toàn không ý thức rằng mình vừaphạm một sơ hở.
- Tại sao lại lỗi của cô? - Vị nữ tu hỏi Meggie bằng một giọng lạnh lùng
chưa bao giờ Meggie được nghe.
- Dạ thưa, con nôn ra đầy bàn, làm lấm cả quần áo. Mẹ con phải lau rửa và
thay quần áo khác cho con, do đó chúng con bị trễ - Meggie giải thích một
cách vụng về.
Nét mặt của xơ Agatha không hề thay đổi nhưng miệng mím chặt lại như
một cái lò xo bị căng ra quá sức, còn đầu ngọn roi thì hạ thấp xuống vài
centimét.
- Chuyện gì thế? Bà hỏi Bob như nói với một loại sâu bọ vô cùng kinh tởm
như chưa từng có trong danh mục khoa hoc.
- Xin xơ tha lỗi cho. Đây là Meghann, em gái của con.
- Nghe đây nhé, phải cho cô em gái của cậu biết có những chuyện mà
những người có lễ giáo không bao giờ nói đến. Trong mọi trường hợp,
chúng ta không đề cập đến bất cứ một món quần áo lót nào. Không bao giờ
và không bao giờ. Tất cả những đứa trẻ con nhà đàng hoàng đều phải hiểu
điều ấy. Đưa tay ra, tất cả.
- Nhưng thưa xơ, lỗi của con mà! Meggie kêu lên.
- Im ngay! Agatha quay qua Meggie ra lệnh - Tôi không cần biết ai là thủ
phạm. Tất cả đều đi trễ, vậy tất cả phải bị phạt. - Sáu roi.
Bà kết án bằng giọng đều đều, chứa đựng sự đắc ý.
Meggie hốt hoảng nhìn hai bàn tay không nhúc nhích của Bob, rồi nghe
tiếng rít của cây roi dài quất xuống nhanh đến nỗi mắt Meggie không theo
kịp. Tiếng voi vang lên khi đụng vào bàn tay, nơi da thịt mỏng và mềm.
Những đường dàiđỏ ửng nổi lên ngay; lần đánh sau trúng gần ngón tay và
lần chót trúng ngay các đầu ngón tay đau thốn tới óc. Xơ Agatha sử dụng
cây roi một cách đặc biệt chính xác. Thêm ba roi nữa quất xuống dưới tay
bên kia của Bob, rồi bà quay sang Jack. Mặt Bob tái nhợt nhưng không một
tiếng rên. Và xơ Agatha đã dùng cách đánh ấy với các đứa em trai của
Bob, kể cả Stuart hiền hậu và dịu dàng nhất. Tất cả không một tiếng rên.Đến Meggie, cô bé nhắm mắt lại khi ngọn roi giơ lên cao và không thấy nó
sa xuống lúc nào. Nhưng sự đau đớn thật dữ dội, da thịt như bị xé ra và
nhức thấu xương. Rồi ngọn roi thứ hai quất xuống; cơn đau lên đến vai thì
ngọn roi thứ ba và thứ tư tiếp theo, trúng ngay những đầu ngón tay. Meggie
cắn môi đến khi rướm máu, và cảm thấy xấu hổ khi bật ra tiếng khóc. Tức
giận phẫn nộ trước một sự bất công như thế, Meggie mở lớn đôi mắt nhìn
xơ Agatha. Đó là bài học đầu tiên của cô bé, bài học không chứa đựng
những điều mà đáng ra vị nữ tu phải đưa vào.
Mãi cho đến giờ ăn trưa, hai bàn tay Meggie mới có thể hoạt động lại bình
thường. Meggie đã trải qua một buổi sáng đầy sợ hãi sửng sốt về những gì
đã xảy ra, đã nghe thấy. Ngồi trước chiếc bàn có hai ghế, ở tận cùng phòng
học, Meggie cũng không chú ý người bạn cùng bàn mình là ai. Cô bé trải
qua giờ cơm trưa buồn bã.
Khi tiếng chuông báo hiệu tiết học trưa bắt đầu, Meggie tìm một chỗ đứng
vào hàng, lúc ấy cô bé mới nhận ra những gì chung quanh. Nỗi xấu hổ bị
phạt chưa vơi nhưng cô bé vẫn ngẩng cao đầu và làm như không nghe
những tiếng xì xào trong đám bạn nhỏ cùng lớp, cũng như không để ý đến
những chiếc cùi chỏ thúc vào nhau.
Xơ Agatha đứng oai vệ trước học sinh với cây roi dài trong tay; xơ Declan
đi đi lại lại ở cuối hàng. Xơ Catherine ngồi trước đàn dương cầm bắt đầu
đánh bản: Hãy tiến lên, các con chiên của Chúa. Các cô cậu dễ thương này
đi đều bước như những người lính nhỏ - xơ Catherine thầm nghĩ như thế
với tất cả niềm kiêu hãnh.
Trong ba nữ tu, xơ Declan là mẫu chép nguyên bản của xơ Agatha với
mười lăm tuổi nhỏ hơn, chỉ có xơ Catherine thì còn có chút gì nhân từ.
Ở hàng ghế cuối lớp, Meggie liều lĩnh liếc mắt nhìn sang cô bạn gái nhỏ
ngồi chung bàn với mình. Một nụ cười sún răng đáp lại. Đôi mắt đen tròn
làm gương mặt u buồn trở nên rực sáng. Cô bé thu hút Meggie có màu tóc
đỏ hoe, gương mặt đầy những vết tàn nhang.
- Bạn tên gì? Cô bé có vẻ đẹp buồn hỏi Meggie, miệng cắn đầu cây bút
chì.
- Meggie Cleary - tiếng trả lời của Meggie thật nhỏ.- Hai em đằng kia! một giọng khô khan vang lên từ đầu lớp.
Meggie giật thót người, nhìn dáo dác xung quanh hoảng sợ, tim cô bé như
va chạm vào lồng ngực. Meggie nhận ra là cả lớp đang nhìn mình. Xơ
Agatha bước xuống đi thẳng đến Meggiẹ Sự sợ hãi khiến Meggie mong
chờ một phép lạ nào giúp mình biến mất, hoặc phải co chân chạy ngay khỏi
nơi này. Phía sau là bức tường, hai bên là những bàn học, còn trước mặt là
xơ Agatha.
- Meghann Cleary, em đã nói chuyện.
- Thưa xơ, vâng.
- Em nói gì đấy?
- Tên con, thưa xợ
- Tên em? Xơ Agatha lặp lại bằng giọng chế diễu vừa đảo mắt nhìn khắp
lớp, như muốn giải thích những lời lên án của mình.
- Này các em, hết chuyện rồi! Thêm một thành viên của gia đình Cleary
mang lại vinh dự cho trường của chúng ta bằng sự hiện diện của họ. Do đó
cô ta phải loan báo một cách ầm ĩ tên mình (rồi xơ quay lại phía Meggie).
Đứng lên! Em phải đứng lên khi tôi đang nói với em, đồ con nhỏ rừng rú!
Đưa hai tay ra.
Meggie bước nhanh ra khỏi hàng ghế, những lọn tóc dài tung lên rồi rơi
xuống che khuất một phần gương mặt. Cô bé vặn chéo hai tay một cách
tuyệt vọng nhưng xơ Agatha vẫn không nhúc nhích, bà ta cứ chờ, cứ chờ,
cứ chờ... Sau cùng Meggie tìm được chút gan dạ chìa lòng bàn tay ra.
Nhưng ngay lúc cây mây đập xuống, cô bé rút bàn tay lại thật nhanh vừa
thở hổn hển, mặt xanh như cắt. Xơ Agatha chụp lấy và kéo chùm tóc hung
về phía bà, gương mặt của Meggie áp sát vào cặp kính của bà.
- Đưa tay ra, Meghann Cleary - xơ Agatha ra lệnh, giọng lịch sự nhưng
lạnh lùng và quyết liệt.
Meggie há miệng ra và nôn cả buổi ăn trưa lên chiếc áo dài của xơ Agatha.
Tiếp đó là tiếng hét kinh hãi của học sinh trong lớp; trong khi đó xơ
Agatha trố mắt nhìn những thứ gớm ghiếc vừa nôn ra chảy dài từ trên
xuống theo những đường xếp của chiếc áo. Mặt bà đỏ gay vì tức giận điên
người cùng với chút kinh hãi. Cây mây quất xuống không cần biết nhắmvào đâu, Meggie đưa hai tay lên che mặt rồi chạy trốn vào một góc lớp,
miệng vẫn tiếp tục nôn mửa. Xơ Agatha đã mỏi mệt không thèm đánh nữa,
bà chỉ ra cửa:
- Ra khỏi đây! Về nhà của mày đi, đồ thất học đáng ghê tởm.
Rồi bà quay phắt lại bước sang lớp học của xơ Declan.
Đôi mắt luống cuống của Meggie tìm thấy Stuart, người anh học chung lớp
ra hiệu cô phải vâng lời. Cái nhìn hiền hòa của Stuart đầy thương hại và
thông cảm với Meggiẹ Cô bé lấy khăn tay chùi miệng và khập khiễng bước
ra khỏi lớp. Còn những hai tiếng đồng hồ nữa mới hết giờ học; Meggie rời
sân trường như một cái máy đi xuống đường và biết rằng các anh mình sẽ
không theo kịp. Vì quá sợ hãi, Meggie không biết phải đứng lại nơi nào để
chờ các anh; Meggie muốn về trước một mình và chỉ một mình thôi để kể
với mẹ tất cả những gì xảy ra.
__________________
Chương 4
Fiona suýt nữa ngã vào con gái khi bước qua ngưỡng cửa sau nhà, tay xách
một giỏ quần áo sắp sửa đem phơi. Meggie đang ngồi trên bậc cao nhất ở
ngoài hàng hiên, đầu gục xuống, tóc rũ rượi, dơ bẩn. Fiona đặt chiếc giỏ
nặng xuống, thở ra, đưa tay vẹt qua một bên phần tóc che khuất mặt
Meggie.
- Nói cho mẹ nghe chuyện gì đã xảy ra?
Bà hỏi bằng giọng mệt mỏi.
- Con nôn ra đầy áo của xơ Agathạ
- Chúa ơi!
Fiona kêu lên, hai tay chống vào hông.
- Bà cũng đã quất cho con nhiều roi - Meggie nói không ra tiếng, nước mắt
ràn rụa.
- Thật sạch sẽ quá - Fiona đứng lên khó nhọc xách chiếc giỏ quần áo đầy
nắp - Meggie, mẹ không biết phải làm gì đây, rồi ba về sẽ cho một trận.
Nói xong bà băng qua sân đi về phía hàng dây phơi quần áo.
Meggie lấy tay quệt nước mắt; nhìn theo mẹ một lúc rồi đứng lên và đixuống con đường dẫn đến lò rèn.
Frank vừa đóng móng xong cho con ngựa cái của ông Roberson thì Meggie
xuất hiện. Anh ta quay lại và thấy Meggie. Những kỷ niệm không lấy gì tốt
đẹp mà cậu ta từng trải qua ở nhà trường lại ập đến. Meggie quá nhỏ bé,
mũm mĩm thơ ngây biết bao, và những gì Frank nhìn thấy trước mắt khiến
anh không thể không nghĩ đến việc giết ngay xơ Agatha. Giết bà ta, giết bà
ta thật sự. Anh ta buông mấy thứ đang cầm trong tay, tháo cái tạp dề bằng
da ra và đến nhanh bên Meggie.
- Chuyện gì đã xảy ra em gái cưng của anh? - Frank vừa hỏi vừa quì xuống
trước mặt em gái.
Mùi nôn mửa xông ra từ em gái làm cho Frank cũng khó chịu nhưng cậu ta
cố chịu đựng.
- Anh Frank - Frank - Frank!
Cô bé nói như rên siết, gương mặt nhăn nhó đau đớn, và bây giờ nước mắt
mới tuôn trào. Meggie nhào tới ôm ghì lấy Frank, và khóc không ra tiếng,
nhưng lại rất đau khổ.
Khi Meggie dịu bớt cơn xúc động, Frank bế em gái đặt trên đống cỏ khô
mùi dễ chịu, bên cạnh con ngựa cái của ông Roberson. Cả hai ngồi yên
lặng nhìn con vật nhấm ở rơm. Đầu của Meggie ngả vào phần ngực trần êm
ái của Frank.
- Tại sao bà ta phạt tất cả anh em mình hở anh Frank? - Meggie hỏi. - Em
đã nói là lỗi riêng của em mà.
Bây giờ thì Frank đã quen cái mùi toát ra từ chiếc áo của em và anh ta
không còn chú ý nữa. Bất chợt, Frank đưa tay ra, lơ đãng vuốt mũi của con
ngựa cái, đẩy nó ra khi nó có vẻ quá thân mật.
- Chúng ta nghèo, Meggie, đó là lý do chính. Các dì phước luôn luôn ghét
học sinh nghèo. Nếu em còn đi học ở cái trường hắc ám đó của xơ Agatha
vài ngày nữa, em sẽ thấy bà ta không chỉ nhắm vào anh em Cleary, mà cả
anh em Marshall Mac Donald. Tất cả đều nghèo. Ngược lại, nếu chúng ta
giàu, đi học bằng xe ngựa có mui sập sang trọng như dòng họ O'' Brien,
các bà xơ sẽ nhảy tới ôm cổ chúng ta. Nhưng chúng ta không có điều kiện
để tặng một cây đàn ócgơ cho nhà thờ, cũng không có những áo choàng lễ
nạm vàng, hay một con ngựa, một chiếc xe cũ tặng cho các bà nữ tu dùng
việc riêng, nên chúng ta chẳng là gì. Các bà muốn đối xử với chúng ta như
thế nào tùy ý.
Cô bé ngái ngủ, hai mí mắt trì nặng xuống. Frank đặt em nằm trên đống cỏ
khô và trở lại công việc của mình, trên môi điểm một nụ cười và cất tiếng
hát nho nhỏ.
Meggie đang ngủ thì Pađy bước vào, tay lấm đầy phân vì ông ta vừa chùi
rửa chuồng ngựa của ông Jarman.
- Mẹ con mới cho ba hay la Meggie bị phạt ở trường và bị đuổi về nhà.
Con có biết lý do hay không?
Frank để cái trục xe qua một bên.
- Tội nghiệp nó đã nôn vào áo của xơ Agathạ
Pađy đổi sắc mặt, mắt nhìn thẳng về phía bức tường xa nhất như đang tìm
một thái độ. Rồi ông lại hướng mắt về phía Meggiẹ
- Con bé bị xúc động quá mức ngay buổi học đầu tiên chứ gì?
- Con không rõ. Nó đã nôn ở nhà trước khi đi và do đó làm cho cả bốn đứa
phải trễ giờ. Chúng đến trường sau khi kiểng đổ. Mỗi đứa đều bị ăn sáu
roi, riêng Meggie bấn loạn vì cho rằng nó là người có lỗi duy nhất đáng bị
phạt. Sau buổi ăn trưa, Meggie lại bị xơ Agatha đánh một lần nữa, thế là
Meggie của chúng ta đã trút toàn bộ bánh mì và mứt lên trên chiếc áo dài
màu đen của xơ Agathạ
- Rồi chuyện gì xảy ra tiếp đó?
- Xơ Agatha đã tặng thêm một trận đòn cho Meggie và đuổi nó về nhà.
- Như vậy, Meggie đã bị phạt là đúng. Ba rất kính trọng các dì phước và
ba cũng ý thức rằng chúng ta không có quyền chỉ trích hành động của các
dì. Nhưng ba mong rằng các dì sẽ sử dụng roi thước bớt đi. Ba biết các dì
phải khổ tâm lắm mới nhét được vào những cái đầu khó bảo của người Ái
Nhĩ Lan chúng ta một chút văn hóa. Dù sao đó là ngày đi học đầu tiên của
Meggie.
Frank nhìn cha sửng sốt. Lâu nay chưa bao giờ Pađy nói chuyện với con
trai lớn trong tư thế giữa hai người đàn ông. Lần đầu tiên được lôi ra khỏinhững oán giận thường xuyên đầy ắp, Frank hiểu ra rằng dù với bề ngoài
cứng rắn, cha mình vẫn tỏ ra âu yếm Meggie hơn cả bọn con trai. Frank
cảm thấy gần với cha hơn. Anh mỉm cười không có chút ẩn ý.
- Meggie là một đứa trẻ tuyệt vời phải không ba?
Pađy tán đồng một cách lơ đãng câu hỏi của Frank vì ông đang nhìn
Meggiẹ Con ngựa cái nhe răng, hỉnh mũi thở phì phì; Meggie trở mình, lăn
qua một bên rồi mở mắt. Khi nhìn thấy cha đứng kế bên Frank, cô bé bật
ngồi dậy, mặt tái nhợt vì sợ sệt.
- Sao cô gái bé nhỏ, con đã trải qua một ngày rất mệt nhọc phải không?
Pađy bước tới, bế Meggie lên và không khỏi giựt mình vì mùi tanh xông
lên mũi. Nhưng ông nhún vai và ôm con gái vào lòng.
- Con bị đánh đòn bằng gậy... - Meggie nói với chạ
- Này nhé, xơ Agatha cho ba biết đây chưa phải là lần cuối cùng đâu (ông
đặt Meggie lên vai) - Bây giờ tốt hơn hết con xem mẹ có sẵn nước nóng để
tắm không. Con gái ba mà hôi hám hơn cả chuồng ngựa của Jarman.
Những lần nôn mửa của Meggie đã mang lại một kết quả khá tốt. Xơ
Agatha vẫn dùng roi đánh cô bé nhưng bây giờ bà luôn luôn giữ một
khoảng cách đủ để tránh những hậu quả bất ngờ. Do đó mà sực mạnh của
làn roi và sự chính xác đã không còn như trước.
Khi Meggie chưa đến trường thì Stuart là mục tiêu chính của ngọn roi trong
tay xơ Agatha. Nhưng thật ra, Meggie lại là đối tượng hành hạ thích thú
hơn, vì tánh hay mơ mộng và kín đáo của Stuart ít có chỗ sơ hở cho xơ
Agatha khai thác.
Meggie quen tay trái. Đó là cái tội đáng trị nhất. Ngày tập viết đầu, khi cô
bé cầm cục phấn lên, xơ Agatha đã lao vào cô bé như César lao vào lính
Gaulois:
- Meghann Cleary, bỏ cục phấn xuống ngay! - bà ta hét lên.
Thế là một trận chiến dằng lại diễn ra. Meggie quen tay trái, bất trị, không
khoan nhượng. Khi xơ Agatha bẻ cụp bàn tay mặt của Meggie trên tấm
bảng, Meggie thấy đầu óc đảo lộn, khổng biết cách nào điều khiển bàn tay
bất lực của mình làm theo đòi hỏi của xơ Agatha. Bà ta có làm gì đi nữa,
bàn tay mặt của Meggie vẫn không thể kẻ được chữ A. Thừa lúc xơ Agathavừa quay sang chỗ khác, Meggie nhanh hơn dùng tay trái viết một chữ A
thật đẹp.
Nhưng cuối cùng xơ Agatha đã thắng. Một buổi sáng trong lúc các học sinh
đang xếp hàng, xơ Agatha đến lắm lấy tay của Meggie kéo ra sau lưng rồi
dùng một sợi dây thừng cột chặt lại. Xơ Agatha chỉ tháo dây khi chuông
báo tan học vào lúc ba giờ chiều. Ngay giờ nghỉ buổi trưa, Meggie cũng
phải ăn, đi dạo và chơi với một bên tay trái hoàn toàn bất động. Ba tháng
sau, Meggie tập được viết bằng tay mặt khá ngay ngắn, theo những qui định
do xơ Agatha đề ra. Để đảm bảo chắc chắn cô bé không sử dụng trở lại tay
trái, bà ta tiếp tục cột như thế thêm hai tháng. Sau đó xơ Agatha tập hợp tất
cả học sinh để đọc một tràng kinh, cảm ơn Đức Chúa Trời với lòng nhân
từ của Ngài, đã chứng minh sai lầm của Meggie - Những đứa con của Đức
Chúa Trời nhân từ đều sử dụng tay mặt; những người sử dụng tay trái là do
quỷ sứ sinh ra, nhất là khi chúng có tóc màu hung. Năm học sắp hết, tháng
12 đến và ngày sinh nhật của Meggie cũng gần rồi. Như một thông lệ của
gia đình khi sinh nhật của các con rơi vào một ngày đi học thì buổi lễ được
dời qua ngày thứ bảy.
Quà sinh nhật của Meggie năm nay là một bộ tách dĩa với những hình vẽ đề
tài Trung Quốc mà cô bé mong muốn từ lâu. Bộ tách dĩa ấy được đặt trên
một chiếc bàn nhỏ xinh sắn màu xanh dương chung quanh có những chiếc
ghế nhỏ. Tất cả do Frank làm cho em trong những lúc rỗi rảnh. Thế là
Agnès mặc chiếc váy màu xanh mới, do chính mẹ Meggie cắt và may,
được đặt trên một trong những chiếc ghế ấy.
Hai ngày trước Noel năm 1917, Pađy trở về nhà đặt lên bàn tờ tuần báo và
một chồng sách mượn của thư viện lưu động. Lần thứ nhất, việc đọc báo
được chọn trước việc đọc sách. Tổng biên tập vừa áp dụng một công thức
mới cho tờ tuần báo phỏng theo các tạp chí Mỹ. Ở phần giữa tờ báo được
dành trọn để phản ánh tình hình chiến cuộc đang diễn ra.
Frank chụp lấy tờ báo và đọc ngấu nghiến các bài tường thuật.
- Thưa ba, con muốn ghi tên vào quân đội. - Frank vừa nói vừa đặt tờ báo
xuống bàn một cách lễ phép.
Fiona quay phắt đầu lại, làm đổ món ragu xuống bếp; Pađy giật nẩy mìnhtrong ghế bành Windsor, ngưng đọc sách.
- Con còn quá trẻ, Frank. - Ông đáp lại.
- Thưa ba, con đã 17 tuổi. Con là một người lớn! Tại sao bọn Đức và bọn
Thổ có quyền tàn sát quân lính của chúng ta như những con heo, trong khi
đó con lại ở nhà ngồi bình yên? Đã đến lúc một thanh niên của dòng họ
Cleary phải phục vụ Tổ quốc.
- Nhưng con chưa tới tuổi, Frank - người ta không nhận con đâu.
- Nhận. Nếu ba không ngăn trở - Frank nói ngược lại một cách quyết liệt,
mắt vẫn nhìn chạ
- Nhưng ba không đồng ý. Con là lao động duy nhất trong gia đình hiện naỵ
Gia đình cần tiền do con làm ra. Con biết điều đó.
- Nhưng trong quân đội con cũng được trả lương.
- Lương lính hả? - Pađy vừa hỏi vừa cười. - Một thợ rèn ở Wahine có thu
nhập nhiều hơn một người đi lính ở châu âu.
- Nhưng khi con ở đó, con có hy vọng đổi thay số phận thợ rèn của con!
Đây là lối thoát duy nhất của con.
- Tất cả điều đó đều là chuyện tầm phào! Trời ơi, con không hiểu chút nào
về những điều con đang nói. Ba sinh ra từ một đất nước trải qua một ngàn
năm chiến tranh, do đó ba biết ba đang nói gì. Con có bao giờ nghe, các
cựu chiến binh kể lại cuộc chiến của những người nông dân gốc Hà Lan ở
Nam Phi chống lại quân Anh? Con thường ra thị trấn Wahine; vậy lần tới
con hãy tìm hiểu. Ba nghĩ điều đó sẽ rất bổ ích cho con. Ngoài ra ba có
cảm tưởng bọn Anh không thích dùng người Tây Tây Lan; bọn chúng luôn
bố trí lính Tây Tây Lan ở những nơi dễ chết nhất để tránh nguy hiểm cho
mạng sống quí giá của họ. Cứ xem cái cách mà viên tướng Chwichell đã
đưa quân lính của chúng ta đến một khu vực hoàn toàn không cần thiết như
ở Gallipili thì cũng biết. Mười ngàn người bị thiệt mạng trong số năm
mươi ngàn. Tại sao lại phải đi chiến đấu cho cuộc chiến của Anh? Nước
Anh đã giúp ích gì cho con, cái xứ gọi là Mẹ Tổ Quốc ấy, ngoại trừ việc
hút các thuộc địa đến giọt máu cuối cùng. Nếu con đến nước Anh, con sẽ
gặp ngay sự khinh bỉ vì con đến từ một xứ thuộc địa. Tây Tây Lan không
hề bị đe dọa, kể cả Úc.- Nhưng con vẫn muốn vào quân đội.
- Con có thể muốn bất cứ điều gì nhưng con sẽ không rời khỏi nơi đây.
Hay nhất là con quên đi tất cả những chuyện ấy. Hơn nữa con còn quá nhỏ
để trở thành người lính.
Gương mặt của Frank đỏ gay, hai môi mím chặt lại, cậu ta cảm thấy đau
khổ về chiều cao dưới trung bình của mình. Mới đây, một nỗi nghi ngờ
đáng sợ lại xâm chiếm Frank. Mười bảy tuổi rồi mà Frank vẫn cao đúng
một thước năm mươi chín, đó là chiều cao khi Frank được 14 tuổi; phải
chăng mình không còn cao lên nữa.
Thế nhưng, công việc ở lò rèn đã mang lại cho anh một thể lực hơn hẳn
vóc dáng của anh. Tuy nhỏ con nhưng Frank có một sức mạnh vô địch. Ở
tuổi 17; anh chưa bao giờ bị đánh bại trong bất cứ một cuộc thi đấu quyền
Anh nào. Frank được nhiều người khắp bán đảo Taranaki biết đến.
Pađy nhìn chăm chú Frank, cố tìm hiểu đứa con trai lớn của mình nhưng
ông cảm thấy bất lực, Frank là đứa con “xa con tim” của ông nhất dù cho
ông đã cố gắng không thiên vị bất cứ đứa con nào.
Cuộc tranh luận trên bàn ăn bỗng tắt ngang khi Pađy nhận xét về chiều cao
của Frank; cả gia đình cúi đầu và im lặng khác thường, họ ăn món ragu thỏ.
Meggie không ăn, mắt cứ nhìn Frank như lo sợ lúc nào đó anh mình có thể
biến đi mất. Còn Frank, sau khi ăn sạch, ngồi nán lại một lúc cho đủ lễ, rồi
đứng lên đi ra ngoài. Một phút sau tiếng rìu bửa củi vang vào tận trong
nhà. Frank tấn công những khúc gỗ cứng nhất mà Pađy đã dự trữ để chuẩn
bị đốt vào mùa đông, củi loại này cháy chậm.
Trong khi mọi người nghĩ rằng Meggie đã ngủ, cô bé lẻn ra khỏi phòng
bằng ngã cửa sổ và đi đến vựa củi, nơi đây được coi là đáng kể nhất trong
đời sống của cả nhà. Vựa củi chiếm khoảng đất rộng một trăm mét vuông,
Frank đang đứng giữa bãi, chiếc rìu sáng loáng giơ cao hạ xuống nghe rít
trong gió, những mảnh gỗ nhỏ văng tứ tung, lưng trần của Frank như thoa
mỡ, mồ hôi chảy xuống từng giọt.
Meggie rón rén đến im lặng bên chiếc áo sơ mi và áo lót của Frank vứt ởmột góc, nhìn anh mình với chiếc rìu, Meggie không khỏi ngạc nhiên. Có
đến ba cái rìu như thế sẵn sàng để thay vì vỏ cây bạch đàn có thể làm lụt đi
nhanh chóng những cái bén nhất.
Frank tiếp tục làm việc gần như theo bản năng dưới ánh sáng hoàng hôn
đang tắt lịm. Meggie né tránh nhanh nhẹn những mảnh gỗ nhỏ và chờ cho
Frank khám phá sự hiện diện của mình.
Khi Frank quay lại để lấy một cái rìu khác thi anh ta bắt gặp cô em gái,
ngồi đó im lặng trong chiếc áo sơ mi của Frank cài nút thật kỹ từ trên
xuống dưới. Frank bước đến gần Meggie ngồi xổm xuống, chiếc rìu vẫn để
giữa hai đầu gối.
- Em ra đây bằng cách nào hỡi cô bé lém lỉnh?
- Ngã cửa sổ. Em chờ cho Stuart ngủ mệ
- Coi chừng đấy, em sẽ trở thành một thằng con trai hư hỏng mất.
- Mặc kệ. Em vẫn thích chơi với bọn con trai hơn là buồn hiu một mình.
- Dĩ nhiên là thế.
- Có chuyện gì không Meggie?
- Frank, anh không đi thật chớ?
Meggie đặt hai bàn tay lên đùi anh mình và ngước nhìn bằng mắt âu lo,
miệng mở lớn, còn nước mắt đã chảy xuống đầy lỗ mũi làm cho cô bé cảm
thấy khó thở.
- Vâng có lẽ anh sẽ đi Meggie ạ - Frank trả lời dịu dàng.
- Anh Frank ơi, không nên! Mẹ và em rất cần anh! Nhà này không thể thiếu
vắng anh được.
Frank mỉm cười dù biết khi nghe Meggie hồn nhiên lặp lại những lời nói
giống hệt mẹ.
- Meggie, có những việc xảy ra không như mong muốn của chúng tạ Em
phải biết điều đó. Trong nhà này các thành viên của gia đình Cleary đã
được dạy phải làm việc chung nhau vì lợi ích của mọi người mà không bao
giờ nghĩ đến bản thân mình. Anh muốn ra đi vì anh đã 17 tuổi, đã đến lúc
phải tự lập. Nhưng cha không đồng ý. Người ta cần anh ở nhà vì lợi ích
chung. Vì anh chưa đủ 21 tuổi nên anh phải nghe lời chạ
Meggie gật đầu thật nhanh, cố gắng hiểu cho được những điều mà Frankgiải thích.
- Thế đấy Meggie. Anh đã suy nghĩ rất kỹ và anh sẽ ra đi, anh không thay
đổi quyết định. Anh biết mẹ và em không muốn thiếu anh, nhưng Bob lớn
rất nhanh. Rồi ba và các em sẽ không nhận ra sự vắng mặt của anh đâu. Chỉ
có đồng tiền của anh kiếm đuợc là đáng kể đối với ba thôi.
- Thế là anh không thương ba mẹ và tụi em nữa sao hở anh Frank?
Frank quay lại ôm Meggie trong vòng tay, siết mạnh vào lòng, vuốt ve cô
em gái với nỗi sung sướng. Hình như có gì quyện chặt vào như là sự tra
tấn, pha lẫn đau buồn, cùng xót xa và cả đói.
- Không đâu Meggie! Anh thương em vô cùng, thương mẹ và em hơn tất cả
mọi người cộng lại. Chúa ơi, phải chi em lớn hơn thì anh có thể giải thích
cho em nghe. Nhưng có lẽ cũng may khi em còn bé bỏng như thế này...
Đúng thế, như thế này vẫn tốt hơn...
- Em van anh, anh đừng đi Frank ạ.
- Meggie của anh, em không hiểu những gì anh đã nói à? Nhưng thôi, điều
đó không quan trọng. Cái chính là em đừng nói cho ai biết em đã gặp anh.
Em có nghe không? Anh không muốn nguời khác biết em đã rõ chuyện này.
Meggie đứng lên, ráng nở nụ cười:
- Anh thấy cần phải đi thì cứ đi, anh Frank.
- Meggie, em nên trở về phòng và lên giường trước khi mẹ biết được em
không có ở đó. Đi đi, chạy nhanh lên...!
Sáng hôm sau, Frank đã đi khỏi nhà. Khi Fiona vào đánh thức Meggie, nét
mặt của bà căng thẳng, nghiêm nghị hơn lúc nào hết. Meggie nhảy ra khỏi
giường như con mèo bị phỏng nước sôi và tự mặc quần áo vào không cần
nhờ mẹ cài những chiếc nút nhỏ.
Ở bếp, mấy cậu con trai đã ngồi chung quanh bàn, buồn bã. Ghế của Pađy
trống. Ghế của Frank cũng trống. Meggie im lặng rón rén ngồi vào chỗ của
mình, răng cắn chặt vào nhau lo sợ. Sau buổi ăn sáng, Fiona ra lệnh cho
các con dọn dẹp nhà. Ra phía sau nhà kho, Bob báo tin với Meggiẹ
- Frank đã đi rồi - Bob nói thật nhỏ.- Có lẽ anh ấy chỉ đi Wahine - Meggie đặt giả thiết.
- Không đâu. Đồ ngu như bò. Anh ấy bỏ nhà ra đi để đăng vào lính. Anh
cũng muốn lớn nhanh lên để có thể làm như Frank! Anh ấy may mắn lắm.
- Còn em thì thích anh ấy ở lại nhà hơn.
- Đúng quá, em chỉ là một đứa con gái.
Khi Meggie trở vào nhà, cô bé hỏi mẹ.
- Ba đâu rồi?
- Ba đi Wahinẹ
- Có phải ba đi để đem Frank về?
- Thật không có cách nào giấu chuyện bí mật trong gia đình này - Fiona cằn
nhằn. - Không, ba không đi tìm Frank ở Wahine. Ba biết Frank đi đâu. Ba
đi đánh điện tín cho cảnh sát và cho quân đội ở Wanganui. Lính quân cảnh
sẽ mang anh con về đây.
- Mẹ ơi, con hy vọng rằng họ sẽ tìm ra Frank. Con không muốn Frank đi
luôn.
- Không một ai trong chúng ta muốn Frank ra đi. Chính vì thế mà ba sẽ lo
liệu những điều cần thiết... để người ta đưa Frank trở về đây. Tội nghiệp
thằng Frank con tôi! Tội nghiệp Frank! - Bà không nói với Meggie mà than
vãn một mình. - Tôi không hiểu tại sao trẻ con phải gánh chịu mọi tội lỗi
của người lớn. Thằng Frank tội nghiệp của tôi, nó khác tất cả...
Ba hôm sau, cảnh sát mang Frank trở về! Cậu ta chống lại dữ dội như một
con sư tử - theo lời của viên trung sĩ ở Wanganui kể lại cho Pađy.
- Hắn ta đúng là một tên võ sĩ. Khi anh chàng biết được rằng Văn phòng
tuyển binh đã được thông báo về trường hợp của hắn, hắn vọt chạy nhanh
như một ngọn lao. Nếu hắn không xui rủi đụng đầu một toán lính tuần thì có
lẽ đã thoát thân. Hắn chống lại dữ dội như một kẻ bị ma ám. Phải cần tới
năm người mới còng hắn được. Anh ta quậy như làm xiếc.
Vừa kể lể một cách hấp dẫn, viên cảnh sát vừa tháo những dây xích nặng
nề trả lại tự do cho Frank rồi đẩy Frank qua ngưỡng cửa. Frank bị loạng
choạng và khi lấy lại thăng bằng anh đã đứng ngay trước mặt Pađy. Cậu ta
co rúm người lại như thể sợ bị phỏng nếu chạm phải thân thể của chạ
Các em của Frank đứng chung quanh nhà nhìn lại. Meggie âu lo không biếtngười ta có làm gì hại Frank không.
Frank quay sang nhìn mẹ trước hết, hai mắt màu đen và màu nâu pha trộn
nhau trong một sự kết hợp chưa bao giờ được nói ra và cũng không bao
giờ nên nói ra. Ánh mắt khắt khe màu xanh của Pađy nhìn thẳng Frank vừa
khinh miệt, vừa chua cay, như ngầm nói không thể chờ đợi gì khác hơn ở
một đứa con như thế. Mắt Frank nhìn xuống đất, chấp nhận cái quyền nổi
giận của cha mình. Từ hôm đó, Pađy không nói chuyện với con trai ngoại
trừ những câu cần nói.
Gặp lại các em mình, đó là điều hết sức khổ tâm với Frank vừa hổ thẹn,
vừa khó chịu, như con chim lộng lẫy bay lên cao từ phương trời xa thẳm
nào đó, rồi bỗng bị bắt phải quay về bị gẫy cánh, tiếng hót trở nên lặng lẽ.
Buổi tối như thường lệ, Meggie chờ mẹ kiểm soát xong các con đi ngủ, cô
bé mới chuồn ra cửa sổ và băng qua sân sau; Meggie biết rõ Frank ở đâu
giờ này. Ở một góc nhà kho, tránh mọi cái nhìn soi nhói, nhất là của cha.
- Frank, Frank, anh ở đâu?
Cô bé hạ thấp giọng hỏi. Meggie bước vào nhà kho tối mịt, chân dò dẫm
mặt đất với nỗi lo sợ chạm phải một con vật nào đó.
- Lại đây, Meggie.
Cô bé rất khó khăn mới nhận ra được giọng nói của Frank. Giọng nói ấy
trước đây rất quen thuộc với Meggie bây giờ lại nghe đều đều, không còn
sự nồng ấm trong đó.
Theo hướng gọi, Meggie đi lần đến chỗ Frank nằm rồi ngã vào lòng anh,
hai tay ôm Frank, tay dài được bao nhiêu cô bé ôm hết bấy nhiêu.
- Frank ơi, em sung sướng quá vì anh đã trở về đây.
Frank tìm cách nằm sát hơn nữa dưới đống cỏ khô để có thể nhìn ngang
mặt Meggie. Tay cô bé luồn vào tóc của Frank miệng kêu lên gừ gừ như
con mèo con. Bóng đen dày đặc không cho Frank nhìn rõ mặt em, thế
nhưng tình cảm của Meggie bỗng chốc phá tung những gút mắc trong lòng
anh. Frank bắt đầu khóc, run rẩy toàn thân một cách đau đớn, nước mắt làm
ướt áo cô bé. Meggie thì không khóc. Cái gì đó trong tâm hồn nhỏ bé của
Meggie đã sớm chín muồi và cô bé trở thành một người khác có thể cảm
nhận được niềm vui tràn ngập, dữ dội, ý thức rõ về sự cần thiết của mình.Meggie ngồi, tay lay nhẹ đầu tóc nâu thân yêu, cứ thế cho đến khi nỗi đau ở
Frank dịu bớt và tan vào khoảng trống.
__________________
Chương 5
"Con đường đi Drogheda chẳng gợi một chút kỷ niệm thời thơ ấu của
mình" - cha Ralph de Bricassart thầm nghĩ như thế. Mắt chỉ mở phân nửa
đủ để chống chỏi lại ánh sáng quá chói chang giữa lúc chiếc ô tô mới hiệu
Daimler đang lăn bánh trên con đường đất gồ ghề bị đào xới bởi những
chiếc xe bò qua lại. Không có chút gì êm ả, xanh tươi và mờ ảo của Ailen
ở cái xứ này. Drogheda! chẳng phải chiến trường mà cũng chẳng có cuộc
vây hãm của cường quốc nào trong lịch sử. Nói thế có quá lố không?
Trong con người cha Ralph tính hài hước vẫn rất nhạy, nó đã vẽ ra trong
ông hình ảnh một Mary Carson ác cảm và đầy quyền lực theo kiểu nhân vật
Cromwell.
Cổng rào cuối cùng hiện lên đàng sau một cụm cây. Chiếc xe đỗ lại, tiếng
máy nghe khá to. Cha Ralph bước xuống, đầu đội chiếc nón rộng vành màu
ghi đã bạc. Ông kéo cái chốt ra rồi đẩy cánh cổng bực bội. Có ít nhất hai
mươi bảy chiếc cổng rào như thế từ nhà của cha Ralph ở Gillanbone đến
lãnh địa Drogheda; cứ đến mỗi cổng rào cha Ralph phải dừng xe lại bước
xuống, mở cổng rồi trở lên xe, cho xe chạy vào bên kia cổng rồi lại dừng
xe lại, bước xuống đóng cổng lại, rồi lại trở lên xe cho đến cổng kế tiếp.
Nhiều lúc ông có ý định giảm bớt phân nửa cái công việc đều đặn mất
công ấy bằng cách bỏ lại phía sau những cái cổng không được đóng lại.
Nhưng dù với cương vị thầy tu khiến cho nhiều người nể trọng, ông cũng
biết rằng điều đó vẫn không ngăn cản các vị chủ của những cổng rào sẽ
buộc ông trả một giá đắt cho sự cẩu thả của mình. Cưỡi ngựa thì không đi
nhanh và tiện lợi bằng xe ô tô nhưng đi ngựa lại có thể mở và đóng các
cổng lại mà không cần đặt chân xuống đất. “Tấm huy chương nào cũng có
bề trái của nó” vừa nói, tay cha Ralph vừa mân mê cái bảng chỉ dẫn tốc
độ. Cái cổng ở phía sau đã được cài chặt lại, cha cho ô tô chạy nốt cây số
cuối cùng, tiến vào chính điện của khu vực DroghedạTrang trại này ở Úc khiến cho bất cứ ai cũng phải kính nể kể cả một người
Ái Nhĩ Lan quen thấy những lâu đài và dinh thự quí tộc. Drogheda là trang
trại xưa nhất và rộng nhất trong vùng. Ông chủ của nó, lão Michael
Carson, - đã qua đời - xây một tòa nhà rất hài hòa với khung cảnh thiên
nhiên, vật liệu xây dựng là sa thạch màu vàng lấy cách đây tám cây số;
kiểu kiến trúc của tòa nhà nghiêm trang theo thế kỷ thứ 18 đời vua George
đệ nhất ở Anh với một tầng và những cửa sổ rộng chia thành ô vuông nhỏ;
một hành lang được chịu trên những cột sắt chạy dài theo tầng trệt. Những
cánh cửa sổ bằng gỗ màu đen trang điểm cho chính diện của tòa nhà cũng
có công dụng của nó: giữa cái nóng oi bức mùa hè, các cánh cửa đóng chặt
để giữ cái mát mẻ bên trong.
Hôm nay, trời vào thu, các gốc nho mọc lên cao những tua xoắn và lá rất
xanh. Nhưng vào mùa xuân, những dây đậu tía trồng vào lúc tòa nhà vừa
xây - năm mươi năm trước - kết thành một khối chắc nịch với những chùm
cây tử đinh hương, cành túa ra rậm rạp, đầy hoa bám dài theo tường và
trên mái hiên. Quanh ngôi nhà, nhiều hecta cỏ trải rộng như một tấm thảm,
được chăm sóc rất kỹ lưỡng, rải rác đây đó là những hình khối đối xứng,
dù ở mùa nào, cũng rực rỡ màu sắc; hoa hồng, thược dược, đinh tử v. v...
chen nhau. Một cụm cây bạch đàn đẹp tuyệt màu trắng xám, với những
chiếc lá thon dài đong đưa cách mặt đất hai mươi thước, làm cho ngôi nhà
tránh được sức nóng dữ dội của mặt trời.
Ngay cả những tháp chứa nước xấu xí cũng được cái loại cây có hoa mọc
đan len nhau che kín. Nhờ say mê trang trại, Michael Carson còn sống đã
xây không biết bao nhiêu là tháp và bồn nước. Người ta đồn rằng
Drogheda có thể giữ cho các thảm cỏ và các vườn hoa tiếp tục xanh tươi
dù cho trời không mưa trong mười năm.
Cha Ralph rời ô tô, đang băng qua bãi cỏ thì một đầy tớ gái xuất hiện ở
hiên trước nhà. Gương mặt cô ta đầy tàn nhang, cười hết miệng.
- Chào chị Minnie - cha Ralph lên tiếng trước.
- Thưa cha, thật hoan hỉ được gặp cha vào buổi sáng đẹp này - Tiếng của
chị ta vang lên vui vẻ, pha giọng Ailen.
Một tay chị giữ cánh cửa bật mở rộng, tay kia chị đưa ra đón lấy chiến nóncũ hình dáng không có vẻ gì là đồ dùng của một tu sĩ.
Mary Carson ngồi trên chiếc ghế bành gần cửa sổ lớn mở rộng, dường như
bà không chú ý đến cái lạnh đang tràn vào căn phòng này. Mái tóc màu
vàng hung của bà vẫn rực rỡ không kém thời trẻ trung. Trên mặt điểm
những nốt tàn nhang màu nâu vì tuổi tác, nhưng không thể che giấu được
dưới những nét nhăn. Dấu hiệu duy nhất về bản tính bướng bỉnh của người
đàn bà này ẩn chứa trong hai đường khắc sâu hai bên mũi chạy dài xuống
mép môi và trong đôi mắt màu xanh nhợt lạnh lùng.
Cha Ralph lặng lẽ đi ngang qua tấm thảm Aubusson và hôn tay lên bà chủ
trang trại. Cử chỉ đó hoàn toàn phù hợp với tầm vóc cao lớn, dáng dấp quí
phái của vị linh mục. Hơn nữa chiếc áo dòng màu đen giản dị còn mang lại
ông cái vẻ lịch thiệp của một nhà tu. Đôi mắt thản nhiên của bà Mary
Carson bỗng sáng lên và hình như bà cố làm duyên khi lên tiếng:
- Cha dùng chút trà nhé?
- Rất sẵn sàng, thưa bà Carson nếu trước hết bà yêu cầu được xem lễ, ông
đáp.
Ông buông mình xuống chiếc ghế bành; chiếc áo dòng bị giật lên để lộ ra ở
bên trong chiếc quần cỡi ngựa mà hai ống nhét vào đôi ủng cao đến gần
đầu gối.
- Tôi có mang theo bánh thánh cho bà. Nhưng nếu bà muốn xem lễ, tôi sẵn
sàng làm lễ trong vài phút. Có lẽ tôi không cần phải nhịn ăn lâu hơn.
- Cha đã đối xử quá tối với chúng tôi, thưa cha. Bà nói với một thái độ khá
kiêu kỳ. Bà biết chính xác là linh mục này, cũng như bao nhiêu linh mục
khác đến với bà, không phải do lòng kính trọng mà vì đồng tiền của bà.
- Xin mời cha dùng trà - bà nói tiếp - Tôi thấy cha làm lễ đã đủ.
Cha Ralph cố che giấu những ác cảm của ông về người phụ nữ lớn tuổi
này. Rõ ràng, giáo khu này lý tưởng để cho ông rèn luyện lại. Nếu có dịp
thoát khỏi thời kỳ thất sủng mà ông đã rơi vào do tánh tình kỳ khôi của
mình, thì ông sẽ không bao giờ lặp lại sai lầm cũ. Và nếu ông biết giữ gìn
các lợi thế sẵn có, bà già này có thể thỏa mãn những ước nguyện của ông.
- Tôi phải thú thật, thưa cha, năm vừa qua là một năm đặc biệt dễ chịu - bà
ta nói. Cha là người chăn dắt được hơn cha Kelly già rất nhiều, mong Chúatrừng phạt tâm hồn mục nát của ông ấy.
Bà nói những tiếng sau cùng giọng đanh lại, thù hằn.
- Bà Carson thân mến! Đó là một tình cảm không được nhân từ lắm.
- Có thể đúng, nhưng nó là sự thật. Ông ta chỉ là một lão già say rượu và
tôi tin chắc rằng Chúa sẽ khiến cho tâm hồn lão ta bị thối rữa y như sự thối
rữa thân xác của lão ta. Bây giờ tôi bắt đầu hiểu cha khá nhiều. Tôi nghĩ
tôi có quyền đặt ra với cha vài câu hỏi chứ? Nói cho cùng, cha coi
Drogheda như nơi nghỉ ngơi của chạ Trang trại này sẽ tạo điều kiền cho
cha làm quen với chăn nuôi và hoàn chỉnh kỹ thuật cỡi ngựa của cha, tránh
những thăng trầm của đời sống ở Gillỵ Dĩ nhiên tất cả những chuyện đó là
do sự mời mọc của tôi, nhưng ngược lại tôi có quyền đặt ra một số yêu
cầu.
Cha Ralph không thể nào chấp nhận được cái cách mà bà ta nhắc nhở ông
là người chịu ơn bà. Nhưng ông đoán biết sẽ có ngày bà ta đánh giá, gây
ảnh hưởng, chi phối mình, đủ để có thể đưa ra một số đòi hỏi.
- Đúng thế, bà Carson. Tôi có cảm ơn bà thế nào cũng không đáp lại được
sự đón tiếp ở Drogheda và tất cả những ân huệ ... nào là ngựa, xe ô tô...
- Cha bao nhiêu tuổi? - bà ta cắt ngang.
- Hai mươi tám.
- Cha trẻ hơn tôi nghĩ. Dù sao người ta không gởi một linh mục như cha
vào một nơi như Gilly. Cha đã làm gì để bị người ta tống về đây, ở tận
cùng thế giới?
- Tôi đã nhục mạ giám mục - ông trả lời một cách bình thản, nụ cười trên
môi.
- À! Nhưng tôi không thể tưởng tượng một linh mục có tài năng như cha lại
có thể vui thích ở cái hóc xó như Gillanbonẹ
- Đó là ý muốn của Chúa.
- Không đúng. Cha đến đây do những sai lầm của con người..., của bản
thân cha, và của vị giám mục của cha. Chỉ có Đức Giáo Hoàng là không
thể sai lầm mà thôi. Cha hoàn toàn bị tách khỏi môi trường tự nhiên của
mình ở Gilly; - mọi người đều nhận thấy điều đó, mặc dù tất cả chúng tôirất sung sướng có được một người như cha; sự kiện này đã mang lại cho
chúng tôi một sự thay đổi dễ chịu vì cho đến nay người ta đã gửi đến đây
những tên không ra gì lại mặc áo dòng - Cũng không cấm cản cái môi
trường tự nhiên của cha ở trong một phòng chờ nào đó đầy quyền lực giáo
hội; chớ không phải ở đây giữa ngựa và cừu. Màu đỏ tía Hồng y thật hạp
với cha.
- Tôi e rằng đó không phải là vấn đề. Tôi không coi Gillanbone ở đúng
ngay trung tâm lãnh thổ dành cho người đại diện của Giáo Hoàng. Tôi may
mắn gặp được bà ở tại Drogheda này.
Bà Carson đón nhận lời nịnh hót được tô đậm không khác lắm với sự dự
tính của người đã thốt ra. Bà thích thú về vẻ đẹp trai, sự ân cần của vị linh
mục có đầu óc sắc bén và tế nhị. Thật ra ông có thể là một Hồng y tuyệt
vời. Trong cả đời, bà không nhớ được khi nào đã gặp được một người đàn
ông đẹp đến thế hoặc sử dụng cái đẹp của mình một cách tài tình như cha
Ralph. Ông ta biết rõ sức lôi cuốn của mình: dáng dấp cao, thân mình cân
đối, nét thanh và quý phái. Có thể nói mỗi yếu tố của cái đẹp thể xác ấy
đều kèm theo sự chăm chút cực kỳ cái bề ngoài mà Chúa chỉ trao cho một
số rất ít người. Từ mái tóc đen và mịn, đến màu xanh đáng kinh ngạc của
đôi mắt, bàn tay, bàn chân thanh nhã và cân đối, ông ta thật hoàn toàn.
Đúng thế, ông ta ý thức rất rõ về vẻ đẹp của mình. Thế nhưng ông ta làm ra
vẻ dè dặt như muốn chứng tỏ không bao giờ ông để mình nô lệ với cái bề
ngoài đẹp trai ấy. Cũng có thể ông ta sẵn sàng sử dụng sức lôi cuốn của
mình để đạt được điều mong muốn không chút ngại ngùng nếu ông xét thấy
cần thiết nhưng không hề tự mê hoặc. Bà Mary Carson thiết tha muốn biết
điều gì đã đưa đẩy vị linh mục cư xử theo cách đó.
Thật lạ lùng. Có lắm linh mục đẹp như những chàng Adonis trong huyền
thoại, cộng thêm sức quyến rũ nhục dục của một Don Juca. Có phải chăng
họ chọn sự độc thân để lánh mình trốn tránh các hậu quả.
- Tại sao cha lại chấp nhận cuộc sống ở Gillanbone? Tại sao cha không
cởi bỏ áo dòng mà phải theo đuổi một cuộc sống như thế này? Những năng
lực trời phú cho phép cha trở nên giàu có và uy quyền... Trước hết, cha
đừng nói là cha dửng dưng với ý niệm về quyền lực.- Bà Carson thân mến, bà là một tín đồ công giáo - ông nói, mày nhíu lại -
Bà biết rằng ước nguyện của tôi là thiêng liêng; tôi không thể từ bỏ. Tôi sẽ
mãi mãi là linh mục cho đến chết.
Bà ta hít mạnh vào rồi cười ngặt nghẽo.
- Thôi đi, thôi đi! Bộ cha thật sự tưởng rằng nếu cha từ bỏ ước nguyện của
mình, cha sẽ bị một cơn sấm chớp, chó và súng đạn rượt đuổi?
- Dĩ nhiên là không. Cũng như tôi không tin bà có thể nghĩ rằng sự sợ hãi bị
trừng phạt sẽ giữ tôi lại con đường ngaỵ
- Ồ! Cha đừng dùng những lời lẽ trịnh trọng như thế. Thế thì cái gì ràng
buộc cha? Cái gì đã buộc cha phải chịu đựng ở nơi bụi bặm, nóng bức và
đầy muỗi mòng như cái xứ Gilly này? Và nhất là cha có thể ở lại đây vĩnh
viễn.
Một thoáng suy nghĩ xuất hiện trong đôi mắt màu xanh của vị linh mục
nhưng ông lại mỉm cười, nhìn bà Carson thương hại.
- Quả thật bà còn sức sống lắm - ông nói như thì thầm. Tôi đã chọn lựa trở
thành linh mục khi còn ở trong nôi. Làm sao tôi có thể giải thích điều đó
với một phụ nữ? Phần nào đó tôi là nơi thu nhận, thưa bà Carson, và nhiều
lúc, tôi cảm thấy chúng tràn ngập trong tôi. Nếu tôi là một linh mục xứng
đáng hơn, sẽ không cần một thời kỳ chuyển tiếp nào. Và cái trạng thái trọn
vẹn, sự đồng nhất với Chúa không lệ thuộc ở một nơi nào nhất định, dù tôi
ở Gillabone hay giữa các bức tường trong một tòa giám mục, ơn Chúa vẫn
đến như nhau. Dĩ nhiên rất khó giải thích vì nó vẫn là điều huyền bí, ngay
cả với các linh mục. Có phải chăng chính là thế. Từ bỏ sự thiêng liêng ấy?
Tôi không thể từ bỏ được.
- Như vậy, cha giải thích có thể giống như một thứ quyền lực, phải không?
Tại sao nó chỉ ban cho các linh mục? Điều gì làm cho cha tin rằng chỉ cần
một lần xức dầu thánh trong một buổi lễ dài và mệt mỏi là đủ mang đến
điều thiêng liêng ấy cho mọi người?
Ông lắc đầu.
- Phải nhiều năm suy nghĩ trước khi được thụ phong, thưa bà Carson. Một
tiến triển chậm đưa đến một trạng thái tâm hồn mở ra cho Chúa ngự. Việc
thụ phong tự nó xứng đáng và mỗi ngày, chúng ta tỏ ra xứng đáng; đó làmục đích của khánh nguyện, bà thấy không? Không một yếu tố thế tục nào,
xen vào giữa người giáo sĩ và thiên hướng của ông ta... kể cả tình yêu của
người phụ nữ hay tiền bạc, hoặc sự ghê tởm phải khuất phục trước những
mệnh lệnh của những người khác. Sự nghèo khó không phải mới lạ đối với
tôi, tôi không xuất thân từ một gia đình giàu có. Tôi chấp nhận sự thanh
khiết mà không thấy khó khăn lắm. Còn sự phục tùng? Đối với riêng tôi, đó
là điều khó nhất. Nhưng tôi tùng phục vì rằng nếu tôi tự coi mình quan
trọng hơn chức năng thừa sai của Chúa thì tôi đã lạc hướng. Tôi phục tùng.
Và nếu cần, tôi sẵn sàng chấp nhận Gillanbone suốt đời.
- Như thế thì cha là thằng ngốc - bà Carson vặn lại. Tôi cũng thế, tôi cho
rằng có nhiều điều quan trọng hơn là tìm cho mình một nhân tình. Nhưng tự
cho mình là nơi Chúa ngự, tôi không coi đó là một trong những điều quan
trọng. Tôi không bao giờ nhận ra được rằng cha lại tin ở Chúa với một
nhiệt tâm như thế. Tôi nghĩ ở cha cũng có sự hoài nghị
- Ồ, tôi cũng thế thôi! Có con người lý trí nào lại không hoài nghi! Chính
vì thế mà có những lúc tôi trở nên trống rỗng. Bà biết không, tôi nghĩ rằng
tôi có thể từ bỏ mọi tham vọng, và bóp chết mọi ham muốn để có hy vọng
trở thành một linh mục hoàn toàn.
- Sự hoàn toàn dù ở bất cứ lĩnh vực nào cũng không thể chịu được, một thứ
buồn chán thảm hại - Bà Carson nhận xét - Riêng tôi, tôi thích và thích hơn
nhiều một nét nào đó không hoàn toàn.
Cha Ralph cười, nhìn bà Carson với sự ngưỡng mộ lẫn sự đố kỵ. Một
người đàn bà đặc biệt.
Sự góa bụa đến với bà cách đây 30 năm và đứa con duy nhất, đứa con trai,
đã chết lúc tuổi còn nhỏ. Do hoàn cảnh đặc biệt của bà ở giữa Gillanbone,
bà đã không nhận lời bất cứ một người đàn ông nào hỏi cưới bà trong số
những người nhiều cao vọng nhất mà bà có quan hệ. Với tư cách vợ góa
của Michael Carson, bà là một bà hoàng không thể chối cãi. Nhưng với tư
cách vợ của một gã nào đó bà đành chuyển cả quyền lực của mình cho
người mình chọn. Chính vì thế mà bà từbỏ các khoái lạc xác thịt, thích cầmlấy cây gậy quyền hành hơn. Thật khó tưởng tượng được bà ta lấy chồng ở
cái xứ Gillanbone này vốn rất thích cái món ngồi lê đôi mách, nói xấu. Thì
đã ra sao. Biết đâu bà lại không đi ngược lại cách xử thế lâu nay và trở
nên nhân hậu, yếu đuối.
Nhưng bây giờ bà đã khá lớn tuổi và người ta biết rằng bà ở ngoài vòng
cám dỗ xác thịt. Khi vị linh mục trẻ tỏ ra cần mẫn trong các nhiệm vụ, bà
có thể trả ơn ông bằng những món quà nhỏ, như chiếc ô tô. Cử chỉ đó
không hề bị coi là khiếm nhã. Là cột trụ không hề lay chuyển của nhà thờ
trong suốt cuộc đời, bà đã giúp cho xứ đạo và người dìu dắt tinh thần đúng
như điều nên làm, ngay cả khi cha Kelly say mèm lảo đảo trong khi làm lễ.
Bà không phải là người duy nhất quan tâm một cách đặc biệt người thay thế
cha Kelly; cha Ralph de Bricassart xứng đáng được lòng tất cả các con
chiên nghèo cũng như giàu. Nếu giáo dân ở xa nhất không có khả năng đến
gặp ông ở Gillanbone thì ông đến với họ và cho tới khi Mary Carson tặng
cho ông chiếc ô tô Daimler, ông di chuyển bằng ngựa. Sự kiên nhẫn và
lòng tốt của ông khiến cho mọi người đều biết ơn. Một số người yêu mến
ông một cách chân thành; chẳng hạn như Martin King ở Bugela đã trang
hoàng lại rất tốn kém nhà xứ; Dominique O'' Rourke ở Dibbanđibban trả
tiền lương hàng tháng cho người quản gia giỏi giang.
Do đó, đứng trên đài cao của tuổi tác và đơn vị, Mary Carson tự cho phép
mình được hưởng mối quan hệ thân mật với cha Ralph mà không hề sợ tai
tiếng. Bà thích tấn công ông bằng trí tuệ, con người mà bà đánh giá ngang
mình về mặt này. Bà lấy làm thích thú khi tìm cách xuyên thủng các ý nghĩ
thầm kín của cha Ralph bởi vì bà chưa bao giờ tin rằng mình đã hiểu rõ
con người này.
Minnie đẩy chiếc bàn có bốn bánh xe nhỏ vào phòng, trên đó đặt trà và
bánh ngọt.
Mary Carson trao cho khách bánh galét và lát bánh mì nướng.
- Cha thân mến - bà nói sau một tiếng thở ra - tôi mong cha sẽ cầu nguyện
cho tôi với một sự nhiệt tình đặc biệt như sáng naỵ
- Bà hãy gọi tôi là Ralph. Tôi nghi ngờ về khả năng tôi cầu nguyện cho bà
với một nhiệt tình cao hơn mọi khi. Tuy nhiên tôi sẽ cố gắng.- Ồ, cha quả là người quyến rũ! Nhưng nhận xét của cha không hồn nhiên
như người ta tưởng. Nói chung, tôi không quan tâm đến cái gì đương nhiên
có, nhưng ở cha tôi không dám tin chắc rằng điều đập vào mắt thật ra chỉ là
cái phần chìm dưới nước của tảng băng; phần nào đó giống như củ cà rốt
mà người ta nhử trước con lừa. Thật sự cha nghĩ thế nào về tôi, cha De
Bricassart? Tôi sẽ không bao giờ biết được điều đó vì rằng cha là người
quá tế nhị phải không? Thật quyến rũ, quyến rũ... Nhưng cha nhớ hãy cầu
nguyện cho tôi. Tôi già rồi và phạm nhiều tội lỗi.
Rồi bà Carson cười khúc khích.
- Tôi rất muốn biết được cha đã phạm tội như thế nào? Đúng thế, tôi rất
muốn biết. Trong lúc này, tôi đang thiếu một người quản lý.
- Lại thiếu nữa?
- Có tất cả năm người lần lượt làm công việc ấy trong năm qua. Thật khó
mà tìm được một người tin cậy.
- Nếu dư luận đồn đãi mà đúng thì rõ ràng bà không phải là một người chủ
quảng đại và tốt bụng đối với những người làm công.
- Ồ sao lại ăn nói trâng tráo thế - Mary Carson vừa nói vừa cười - Ai đã
tặng cho cha chiếc Daimler mới toanh để cho cha khỏi phải đi ngựa.
- À! Nhưng bà cũng thấy với nhiệt tình của tôi như thế nào khi cầu nguyện
cho bà.
- Nếu Michael có được một chút trí tuệ và cá tính của cha, tôi tin rằng tôi
đã yêu anh ấy - Bà ta buông câu nói đột ngột (sắc mặt của bà đổi ngay và
trở nên cau có) có lẽ cha nghĩ rằng tôi không còn một người bà con nào ở
trên cõi đời này và tôi buộc phải để lại tiền bạc, đất đai cho Mẹ của giáo
hội chúng ta?
- Tôi hoàn toàn không biết một tí gì - cha Ralph đáp lại một cách thản
nhiên, tay vừa châm trà vào tách.
- Đây nhé, tôi vẫn còn một người em gia đình đông con phần nhiều là con
trai.
- Bà quả thật rất may mắn - giọng cha Ralph nghiêm nghị.
- Khi tôi lấy chồng, tôi hoàn toàn không có một tài sản đất đai nào. Lúc đó
tôi biết rằng tôi không thể kiếm một tấm chồng khá giả ở Ailen nơi mà mộtcô gái muốn câu được một ông chồng giàu phải có học và thuộc dòng dõi
tiếng tăm. Cho nên tôi đã làm ăn vất vả để dành dụm một số tiền đủ để đi
đến một nước khác, ở đó đàn ông giàu có và ít đòi hỏi hơn. Khi đặt chân
lên đất này, tôi chỉ biết dựa vào gương mặt dễ coi, vóc dáng và một bộ óc
trên trung bình của mình. Như thế tôi đã đóng đinh Michael Carson, một
thằng giàu ngu độn. ông ta yêu tôi cho đến hơi thở cuối cùng.
- Còn người em của bà? - Cha Ralph vội vàng hỏi với hy vọng kéo bà ta
trở lại đề tài chính.
- Em trai tôi Padraic nhỏ hơn tôi 11 tuổi. Vậy là hắn đã 54 rồi. Chúng tôi
là hai kẻ duy nhất của gia đình còn sống sót lại. Tôi biết rất ít về em tôi vì
khi tôi rời Galway nó vẫn còn quá nhỏ. Hiện nay em tôi sống ở Tây Tây
Lan. Nó đã bỏ xứ ra đi mưu tìm sự nghiệp nhưng lại không thành công. Tối
hôm kia lúc một trong những công nhân của tôi đến cho hay tên quản gia
Arthur Teviot đã chuồn với bọc quần áo của hắn, tôi chợt nghĩ đến
Padraic, một người sống chết với đất đai, nhiều kinh nghiệm nhưng không
có điều kiện để trở thành ông chủ. Thế thì tại sao tôi không viết thư cho em
tôi và yêu cầu Padraic đưa con cái đến đây làm ăn sinh sống - Tôi đã tự
nói với mình, khi tôi chết, sẽ cho nó thừa kế Drogheda và công ty Michael
Limited vì nó là bà con gần nhất của tôi, không kể vài người anh em bà con
xa xôi còn ở lại Ailen.
Bà cười và nói tiếp:
- Tại sao lại phải chờ đợi? Nó đến ngay bây giờ vẫn tốt hơn là khi tôi đã
chết. Ngay bây giờ nó có thể làm quen với công việc nuôi cừu trên những
cánh đồng đất đen mà theo tôi rất khác xa với các điều kiện ở Tây Tây
Lan. Sau đó, khi tôi không còn nữa, nó đã có thể mang đôi ủng của tôi một
cách thoải mái
Đầu hơi nghiêng, bà quan sát rất kỹ cha Ralph.
- Tôi tự hỏi tại sao bà không nghĩ đến chuyện này sớm hơn - Ralph chỉ nói
thế.
- Ồ, tôi có nghĩ chứ! Tuy nhiên gần đây, tôi muốn tránh bằng mọi giá cái
đám kên kên chờ đợi một cách sốt ruột ngày tàn của tôi. Tôi có cảm giác là
cái ngày của số mệnh gần kề và tôi tin rằng... Ồ! Tôi không biết. Giá màcái ngày ấy quanh tôi là những người ruột thịt chắc là những người ruột thịt
chắc là tôi sẽ dễ chịu hơn.
- Chuyện gì đã xảy ra, bà đang bệnh? Cha Ralph hỏi dồn đầy lo âu.
- Tôi hoàn toàn khỏe mạnh - Bà Mary Carson nhún vai - Tuy nhiên, vượt
qua cái tuổi 65 cũng có cái gì đáng lo ngại.
- Tôi hiểu, và bà rất có lý. Chắc hẳn bà muốn được nghe những giọng nói
trẻ trung trong ngôi nhà này.
- Ồ, họ không ở đây đâu - Bà Carson kêu lên - Họ sẽ ở tại nhà dành cho
quản lý, nằm bên con suối cách đây không xa. Đặc biệt tôi không thích trẻ
con, kể cả tiếng nói của chúng.
- Phải chăng làm như thế là keo kiệt với em trai duy nhất của bà?
- Nó sẽ có gia tài... vậy nó phải xứng đáng để được nhận cái gia tài đó! Bà
Carson nói một cách sòng phẳng.
Fiona lại sinh thêm một đứa bé trai sáu ngày trước khi Meggie kỷ niệm
sinh nhật lần thứ chín. Bà coi đó là điều may mắn sau hai lần sẩy thai. Chín
tuổi, Meggie có thể giúp đỡ cho mẹ. Fiona đã bốn mươi - cái tuổi không
còn trẻ để sinh con mà không thấy cực nhọc và mất sức. Đứa con trai kém
sức khỏe được đặt tên là Harold, và đây là lần đầu tiên bà phải nhờ bác sĩ
đến nhà chăm sóc thường xuyên.
Đúng là họa vô đơn chí, biết bao nhiêu khó khăn lại chồng chất lên gia
đình Cleary. Sau chiến tranh, thời kỳ phát triển vẫn còn là chuyện xa vời,
tệ hơn nữa các miền quê đang bước vào cơn khủng hoảng nên việc làm
càng ngày càng khó hơn.
Lão Angus Mac Whirter một hôm mang đến cho gia đình bức điện lúc buổi
cơm trưa vừa xong. Hay tay run run. Pađy mở phong thư ra: một bức thư
gởi như thế thường không phải là những tin vui. Mấy đứa con trai tụ tập lại
quanh ông, chỉ trừ Frank cầm tách trà và rời khỏi bàn ăn. Fiona nhìn theo
Frank rồi quay nhìn ông chồng. Pađy lẩm bẩm gì đó.
- Chuyện gì đó hở anh? Bà hỏi chồng đang nhìn tờ giấy và ông trả lời như
một tin báo tử.- Archibald không cần cha con chúng ta - Bob đấm mạnh một cách tức giận
xuống bàn. Anh đã quá hy vọng về việc theo tập sự làm thợ cắt lông cừu
mà khởi đầu là đàn cừu của Archibald.
- Tại sao hắn lại chơi mình một vố đau như vậy hở bả Đáng lẽ ngày mai
chúng ta đã bắt đầu.
- Hắn không nêu ra lý do nào cả. Ba đoán chắc một tên vô loại nào đó đã
hạ giá thấp để “chặt co” dưới chân chúng tạ
- Ồ, Pađy! Bà vợ thở ra.
Đứa bé mà cả nhà gọi là Hal bắt đầu khóc trong chiếc nôi đặt gần nhà bếp.
Fiona chưa kịp quay lại thì Meggie đã nhanh chân đến bên em. Frank vừa
trở lại đứng gần cửa, vẫn tách trà trên tay, anh nhìn cha một cách chăm
chú.
- Vậy thì bắt buộc tôi phải đi gặp Archibald - Cuối cùng Pađy đã nói như
thế - Bây giờ đã quá trễ để đi tìm một chỗ có người thuê cắt lông cừu. Tôi
cho rằng hắn phải giải thích với tôi rõ ràng. Chúng ta chỉ còn hy vọng kiếm
được công việc vắt sữa cho đến khi đến Willoughly vào tháng bảy.
Trong khi nhìn Meggie thay tã cho em, Frank trêu chọc:
- Một người mẹ nhỏ...
- Ồ, đừng nói thế - Meggie bẻ lại, giận dỗi - Em chỉ giúp mẹ thôi mà...
- Anh biết - Frank gật đầu dễ thương - Em là một cô gái rất tốt, Meggie bé
nhỏ của anh.
Nếu không vì Meggie và mẹ, Frank đã dứt khoát rời khỏi ngôi nhà này.
Anh nhìn cay độc về phía cha, người trách nhiệm chính về cuộc sống mới
có lắm xáo trộn trong gia đình.
Vì đã lớn Frank không bị đuổi ra khỏi nhà lúc mẹ sinh bé Hal, cho nên anh
nghe tất cả những tiếng rên la khủng khiếp từ phòng mẹ hôm Hal ra đời.
Chưa có một người phụ nữ nào lại chịu một thử thách ghê gớm như thế -
anh đã lặp lại câu này cả ngàn lần. Một người đàn ông ích kỷ, không chịu
để cho vợ được yên.
Meggie đặt Hal trở vào nôi và đến đứng bên cạnh mẹ. Lại một cô gái mà
cuộc đời sau này sẽ vứt đi - Frank chua xót thầm nghĩ. Cũng gương mặt
nghiêng nghiêng, sự nhạy cảm có cái gì đó của mẹ trong đôi tay, trong thânhình nhỏ bé của Meggiẹ Cô bé sẽ giống mẹ rất nhiều khi trở thành một phụ
nữ. Meggie sẽ lấy ai làm chồng? Một thằng bặm trợn nào khác làm nghề
cắt lông cừu người Ailen hay một tên nào đó thô lỗ, dơ dáy, làm mướn tại
một hãng sữa ở Wahine? Con bé xứng đáng có một người chồng hơn thế
nhưng gốc gác gia đình không cho phép Meggie đòi hỏi cao hơn. Tình thế
bế tắc, đó là điều mà ai cũng nói đến và mỗi năm như khẳng định thêm lời
tuyên án này.
Đoán biết cái nhìn chăm chú của Frank; Fiona và Meggie quay lại, cùng
một lúc cả hai cười thật trìu mến, nụ cười mà phụ nữ thường chỉ dành cho
người mình yêu thương nhất. Frank đặt tách trà xuống rồi đi ra sân cho chó
ăn, anh thèm được khóc hay giết người miễn là làm sao vơi đi sự đau khổ.
Ba ngày sau Pađy nhận được tin buồn từ Archibald thì thư của Mary
Carson đến. Ông mở thư ngay tại trạm bưu điện Wahine và trở về nhà vui
mừng nhảy nhót như một đứa trẻ con.
- Chúng ta sẽ đi Úc! ông hét lên, tay giơ cao những tờ giấy trắng mịn đắt
tiền trước sự ngơ ngác của gia đình.
Im lặng. Mọi người nhìn ông. Sắc mặt của Fiona lộ nét băn khoăn, Meggie
cũng thế, nhưng ánh mắt của mấy đứa con trai thì đầy niềm vui. Mắt Frank
sáng chói.
- Nhưng này Pađy, tại sao chị ấy bỗng nhiên nhớ đến anh sau bao nhiêu
năm xa cách? - Fiona hỏi chồng sau khi đọc lá thư. Từ lâu nay chị ấy vẫn
giàu có và vẫn sống cô độc. Thế nhưng có lúc nào bà ấy ngỏ lời giúp đỡ
chúng ta đâu.
- Hình như chị ấy sợ chết một mình - Pađy nói để vừa xua đuổi nỗi lo sợ
của mình vừa làm yên lòng Fiona. Em có thấy chị ấy nói: chị không còn trẻ
và gia đình các em là những người thừa kế của chị. Chị nghĩ rằng chúng ta
nên gặp nhau trước khi chị chết và đã đến lúc em tập làm người quản lý
của chị, đó là một cách đào tạo tốt. Các con của em đã đến tuổi làm việc,
cũng có thể tham gia có hiệu quả vào việc chăn nuôi. Drogheda sẽ trở
thành một kiểu làm ăn gia đình, điều khiển bởi gia đình, không cần sự tiếp
tay từ bên ngoài.
- Chị ấy không nói gì đến chuyện gởi tiền cho chúng ta đi à?Pađy ưỡn người lên vàdứt khoát:
- Không bao giờ tôi chịu hạ mình xuống xin xỏ chị ấy! Chúng ta có thể đến
Úc mà không cần ăn mày tiền của chị ấy. Tôi có một số tiền dành dụm lâu
naỵ
- Tôi nghĩ đúng ra chị ấy phải chịu cái khoản chi phí này chứ - Fiona vặn
lại không chịu bỏ quạ
Sự bướng bỉnh của Fiona làm ai cũng ngạc nhiên bở lâu nay ít khi Fiona
nói năng như vậy.
- Tại sao anh lại từ bỏ cuộc sống của anh tại đây và đi làm việc cho chị ấy
chỉ vì tin vào một lời hứa trong thư? Chị ấy chưa bao giờ nhúc nhích một
ngón tay để giúp chúng ta, tôi không tin ở chị ấy. Tôi nhớ đã nghe chính
anh nói về chị ấy. Tựu chung chị ấy có những ngón tay cong quắp đáng tởm
hơn cả bọn người bòn rút từng xu. Anh Pađy à, dù sao thì anh cũng không
biết rõ chị ấy; anh và chị ấy cách xa nhau về tuổi, chị ấy đi lúc trước khi
anh bắt đầu đi học kia mà.
- Anh thấy điều đó chẳng ăn thua gì. Và nếu chị ấy thuộc loại người bòn rút
từng xu, lại càng tốt, vì như thế chẳng qua là chúng ta sẽ được nhiều tiền
hơn. Đừng kèo nài nữa Fiona à. Chúng ta sẽ điúUc và chúng ta sẽ tự lo cho
chuyến đi ấy.
Fiona không nói thêm một lời. Trên sắc mặt bà không để lộ một nét nào để
có thể biết bà bị tổn thương hay không.
- Hoan hô, chúng ta sẽ đi Úc! Bob ôm lấy vai cha nói lớn.
Jack, Hughie và Stuart nhảy múa lung tung còn Frank chỉ mỉm cười, mắt
nhìn xa xăm.
Chỉ có Fiona và Meggie là buồn và lo ngại. Cả hai hy vọng rằng mọi
chuyện sẽ không đến đâu vì cuộc sống ở Úc chưa chắc sẽ dễ dàng hơn, bên
ấy cũng sẽ y hệt như ở đây mà lại thêm sự lạc lõng vì lạ xứ lạ người.
- Gillanbone ở đâu ba? - Stuart hỏi.
Một tấm bản đồ thế giới cũ kỹ được đem ra. Mấy đứa con trai mở to mắt
nhìn những tờ giấy ngả màu vàng ố cho đến khi phát hiện ra New South
Wales, diện tích tương đương với Bắc đảo của Tây Tây Lan. Và kìaGillabone ở phía trên góc.
- Đây là tấm bản đồ rất cũ, Pađy giải thích. Úc châu giống như châu Mỹ,
phát triển với những bước vĩ đại. Tôi tin chắc rằng cho tới nay đã có nhiều
thành phố được xây dựng.
Pađy đi Wanganni để giữ tám chỗ nằm trên tàu thủy Wahine. Phải mang
mấy con chó cho hàng xóm, bán rẻ một số bàn ghế, chỉ giữ lại một vài món
mà Fiona cần thiết. Chén, dĩa, quần áo, sách vở và dụng cụ nhà bếp đều
được đóng thùng mang xuống tàu.
Cuộc hành trình đúng là cơn ác mộng. Trước khi tàu Wahine rời cảng
Wellington, tất cả đã say sóng và cứ trong tình trạng đó chịu đựng suốt một
ngàn hai trăm hải lý trên mặt biển động với những cơn gió mùa đông.
Bốn tiếng đồng hồ sau khi rời Wellington, Frank và Meggie vẫn luôn ở bên
mẹ và em bé, tưởng đâu mẹ mình sắp chết. Người phục vụ trên tàu mời một
y sĩ từ những buồng hạng nhất xuống khám Fionạ ông ta đã lắc đầu bi quan.
- Mong sao cho cuộc hành trình sớm kết thúc - ông ta chỉ nói thế.
Liền đó, ông ra lệnh cho y tá tìm sữa cho đứa bé.
Frank và Meggie vẫn cố gắng cho bé Hal bú nhưng Hal không thiết tha lắm
khi bình sữa được đưa vào miệng.
Còn ba tiếng đồng hồ nữa đến Sydney, biển đột ngột phẳng lặng như mặt
gương. Meggie bắt đầu tỉnh lại, tưởng tượng rằng chiếc tàu đang rên siết
sau những đòn nhừ tử chịu đựng sóng gió.
Meggie không bao giờ quên những tiếng còi buồn bã rú lên trong sương
mù, ấn tượng đầu tiên khi đến Úc.
Pađy đã bồng Fiona trên tay khi rời tàu Wahine, tiếp theo là Frank với em
bé, Meggie với một vali và mỗi đứa con trai bước đi chệnh choạng, lưng
còng dước sức nặng của một thứ nào đó. Họ đến Pyrmont - cái tên hoàn
toàn vô nghĩa đối với họ - vào một buổi sáng mùa đông đầy sương mù,
cuối tháng tám 1921. Một hàng xe tắc-xi nối đuôi nhau đậu trước bến tàu.
Mắt Meggie mở to ra, miệng há hốc, đứng nhìn; chưa bao giờ cô bé lại
thấy lắm ô tô tập trung lại một nơi như thế. Pađy dồn được cả nhà lên một
chiếc tắc-xi. Tài xế gợi ý đưa họ đến khách sạn Cung nhân nhân.
- Nơi này thích hợp nhất cho gia đình ông bạn - hắn giải thích với Pađy.Đây là một khách sạn dành cho công nhân do những người thuộc Đạo quân
cứu thế quản lý.
Các con đường rộng đầy xe, chạy đủ hướng. Có rất ít ngựa. Chóa mắt, họ
nhìn ngắm những tòa nhà cao bằng gạch, ngạc nhiên về những bước đi tất
bật của khách bộ hành ở Wellington. Thủ đô Tây Tây Lan đã để lại dấu ấn
đối với họ nhưng so với Sydney thì nó chỉ như một thị trấn.
Trong khi Fiona nghỉ ngơi ở một trong vô số những phòng của khách sạn
được gọi một cách trìu mến Cung nhân dân, Pađy đi đến nhà ga trung tâm
để hỏi giờ tàu lửa đi Gillanbone.
Ngay tối hôm đó họ lại lên tàu. Nếu không đi ngay chuyến này họ phải nằm
khách sạn thêm một tuần nữa mới có tàu đi Gillanbone. Trước khi lên tàu,
Pađy đã đánh điện cho Mary Carson báo trước tin họ sẽ đến vào chiều
mai.
Pađy tìm được một ngăn trống trên toa tàu hạng ba cho cả gia đình. Những
người lên sau ghé đầu vào tìm chỗ đều kinh hãi bỏ đi khi thấy lúc nhúc trẻ
con.
Sáng hôm sau, mở choàng mắt ra, họ kinh ngạc và lo âu trước cảnh vật hết
sức lạ lùng ngoài sự tưởng tượng. Hóa ra có một nơi như thế này trên trái
đất hay sao? Vẫn là những thung lũng nhỏ có vẻ dịu dàng như ở Tây Tây
Lan nhưng không có chút gì gợi đến miền đất vừa bỏ đi. Chỉ có màu nâu và
màu xám, kẻ cả cây lá! Lúa mì mùa đông đã ngả sang màu bạc pha vàng
hung dưới ánh nắng dữ dội của mặt trời. Fiona nhìn cảnh vật không để lộ
xúc động còn Meggie thì nước mắt ràn rụa. Thật ghê tởm, mênh mông và
không có một dấu vết của màu.
Gillanbone xuất hiện lúc ánh mặt trời sắp tắt. Một sự tập hợp đẹp mắt
những căn nhà gỗ với tôn dợn sóng đã cũ. Hai bên con đường chính đầy
bụi bặm, không có cây và buồn tẻ. Những tia sáng cuối cùng của mặt trời
phủ lên một màu vàng hào nháng, đem lại cho thị trấn cái uy thế ngắn ngủi
mờ dần. Gia đình Cleary đứng tại nhà ga mở to mắt nhìn. Nơi đây là một
tập hợp dân cư trưng ở ngoài rìa cũng những vùng đất đai khô cằn. Nơi
cuối cùng của một vùng còn nhận được những trận mưa không xa lắm về
hướng Tây, bắt đầu ba ngàn cây số đất sa mạc.Một chiếc ô tô lộng lẫy đậu ở sân ga, một linh mục tiến đến gần họ bằng
những bước dài mà không cần chú ý đến lớp bụi dày. Chiếc áo dòng dài
gợi nhớ hình ảnh của quá khứ; hình như ông không đi trên hai chân như một
người bình thường, mà lướt nhẹ như trong một giấc mơ; xung quanh ông
bụi tung lên từng đợt.
- Xin mừng tất cả đã đến bình yên, tôi là cha De Bricassart, vừa nói ông
vừa đưa tay ra bắt tay Pađy. Tôi không thể nào lầm, ông đúng là em trai
của bà Mary, ông giống bà ấy như hai giọt nước (ông quay sang nắm tay
Fiona đưa lên môi với một nụ cước hết sức chân thành. Hơn ai hết, cha
Ralph nhận ra ngay, đó là một người phụ nữ đáng kính). Bà rất đẹp - ông
nói câu ấy như thể nhận xét vừa rồi của ông là chuyện tự nhiên đối với một
linh mục, rồi ông đưa mắt về phía anh em gia đình Cleary đang tập trung ở
một góc.
Mắt ông dừng một lúc, ngạc nhiên nhìn Frank bế Hal trên tay. Phía sau
đám con trai, Meggie đứng nhìn cha Ralph, miệng hé mở, tần ngần một
chút như vừa chứng kiến sự xuất hiện của Chúa. Không quan tâm đến chiếc
áo dòng bằng vải mịn phết xuống đất, ông vượt qua đám con trai đến ngồi
trước mặt Meggie đặt hai bàn tay chắc rắn lên tay cô bé như dịu dàng che
chở:
- Thế nào! Con tên gì? Cha Ralph hỏi với nụ cười.
- Meggie - cô bé trả lời.
- Em tôi, tên Meghann - Frank xen vào hai mày nhíu lại tỏ vẻ bực mình con
người dẹp trai và cao lớn ấy.
- Meghann là cái tên tôi ưa thích (ông đứng dậy nhưng vẫn giữ tay Meggie
trong tay mình). Tốt nhất là các bạn đến nghỉ đêm tại nhà xứ, ông vừa nói
vừa dẫn Meggie đến xe ô tô. Tôi sẽ đưa các bạn đến Droghela sáng mai;
trang trại quá xa nên sau một cuộc hành trình dài bằng tàu hỏa thế này,
chúng ta chưa thể đi ngay được chiều nay.
Khách sạn Hoàng Gia, nhà thờ công giáo, trường học của nhà thờ, tu viện
và nhà xứ là những ngôi nhà bằng gạch hiếm hoi ở Gillanbone; tất cả các
nhà khác, kể cả trường lớn của thị xã, đều bằng gỗ.
Bây giờ bóng tối đã phủ trùm, trời trở lạnh không thể tưởng tượng; nhưngphòng khách nhà xứ, ngọn lửa của lò sưởi đang cháy và từ một gian kế đó
một mùi thơm dịu dàng hấp dẫn thoang thoảng bay qua. Bà quản gia người
Scotland da nhăn nheo, miệng luôn nói. Đã quen với sự lạnh nhạt của các
linh mục ở Wahine, gia đình Cleary vẫn xa lạ trước vẻ hiền lành chất phác
nổi bật ở cha Ralph. Chỉ có Pađy là chậm, không có gì ngạc nhiên vì ông
liên tưởng đến lòng nhân hậu của các tu sĩ vùng Galway quê hương của
ông vẫn thường có cách đối xử tốt với người nghèo khó. Với ông, tôn giáo
là hơi ấm và niềm an ủi; còn với những người khác trong gia đình ông thì
tôn giáo là một khái niệm ăn sâu đầy sợ hãi, là sự khép mình vào một cách
xử thế chệch ra ngoài nếu muốn tránh bị đày xuống địa ngục.
Khi mọi người đã về phòng, cha Ralph ngả người thoải mái trong chiếc
ghế bành, mải mê nhìn ngọn lửa, đốt một điếu thuốc và mỉm cười. Trong
đầu ông hiện lại đầy đủ hình ảnh gia đình Cleary, đúng như lần đầu ông đã
gặp ở sân ga. Người đàn ông thật giống Mary Carson, nhưng lưng còng vì
làm lụng vất vả và rõ ràng không hề có nét thâm hiểm của người chị. Vợ
ông ta, đẹp, mỏi mệt, tưởng như vừa bước xuống từ trên chiếc xe sang
trọng được kéo bởi những con ngựa trắng. Frank, cau có, mắt đen, thật đen;
các đứa con trai khác giống cha, ngoại trừ đứa nhỏ nhất giống mẹ. Stuart,
thằng này lớn lên sẽ rất đẹp. Đứa bé còn bồng không thể biết nó sẽ ra sao,
và cuối cùng là Meggie.
Đây là đứa con gái đẹp và đáng yêu nhất mà ông chưa từng gặp. Màu tóc
không thể nào mô tả được, không nâu mà cũng không vàng một sự hòa hợp
tuyệt vời của hai màu. Cô bé đã nhìn ông bằng đôi mắt xám ánh lên màu
bạc, con người trong suốt óng ánh như những viên ngọc. Nhún vai, ông
ném điếu thuốc vào lò sưởi và đứng dậy.
Sáng hôm sau, ông đưa những người khách đi Drogheda. Quen thuộc với
cảnh vật dọc đường, bằng những nhận xét của mình, ông gây thích thú cho
những người ngồi trên xe. Hôm nay trời nóng bức, như hôm qua.
Tất cả ngồi chiếc Daimler tiện nghi gấp bội tàu hỏa.
- Các con cừu ở đây sẫm quá! Meggie nhận xét buồn bã; ánh mắt mất hút
theo những chấm đỏ li ti mà người ta có thể đoán là những cái mũi đangchúi xuống cỏ.
- À, tôi thấy đúng ra nên chọn Tây Tây Lan, linh mục nói. Đó là một xứ
giống như Ái Nhĩ Lan và nơi các con cừu đều có một màu trắng sữa đẹp.
- Vâng, ở đây giống Tây Tây Lan nhiều thứ - Pađy tiếp lời - Ở đó cũng có
một thứ cỏ xanh mướt, nhưng hoang dã hơn.
Pađy có vẻ cảm tình sâu đậm đối với cha Ralph. Đúng lúc đó, những con
đà điểu tập hợp thành một đàn đứng phắt chệnh choạng rồi bắt đầu chạy
nhanh như gió, chân cao lỏng khỏng rất khó nhìn rõ, cổ dài thẳng lên. Bọn
trẻ con nín thở rồi cười rộ lên, thích thú được xem những con chim to lớn
chỉ chạy chớ không baỵ
Sau những xúc động mà Úc châu nhanh chóng mang đến, trang trại
Drogheda xuất hiện, gợi cho họ nhớ đến một phần Tây Tây Lan với tiền
sảnh của tòa nhà theo kiểu thời vua George, những cây đậu chổi um tùm và
hàng ngàn cây hồng.
- Mình sẽ ở đây à? Meggie hỏi.
- Không hoàn toàn đúng như thế - Linh mục lên tiếng rất mau - Ngôi nhà
mà các bạn đến ở cách đây một kilomet rưỡi, phía dưới thấp một chút,
cạnh bên con suối.
Mary Carson chờ họ trong phòng khách rộng thênh thang. Bà không có một
động tác nào để đón em trai mình; Pađy phải đến chỗ bà đang ngồi.
- Thế nào, Pađy? Bà hỏi nhỏ nhẹ nhưng mắt bà liếc nhìn qua phía cha
Ralph đang bế Meggie trên tay, hai cánh tay cô bé choàng lấy cổ chạ Mary
Carson đứng dậy một cách nặng nề, không chào Fiona hoặc bất cứ ai.
- Chúng ta sẽ xem lễ tức thời, bà nói. Tôi biết chắc cha Ralph rất nóng
lòng đi ngaỵ
- Không đâu bà Mary thân mến (ông cười, mắt long lanh). Tôi sẽ làm lễ,
rồi tất cả chúng ta sẽ dùng chung một buổi cơm trưa ngon miệng và sau đó
tôi sẽ chỉ cho Meggie cái nhà sẽ ở như tôi đã hứa với cô bé.
- Meggie? Mary Carson ngạc nhiên.
- Vâng, đây là Meggie. Nhưng chúng ta đã làm quen không đúng trình tự
của nó, tôi xin giới thiệu cho đúng. Bà Mary, tôi xin giới thiệu Fionạ
Mary Carson bày tỏ sự đồng ý bằng một cái gật đầu gọn lỏn và sau đókhông chú ý đến mấy cậu con trai mà cha Ralph lần lượt gọi tên. Bà quá
chăm chú quan sát linh mục và Meggie.
Nơi ở dành cho người quản lý được xây theo kiểu nhà sàn bên cạnh con
suối hẹp khoảng mười mét với hàng bạch đàn hai bên bờ. So với sự nguy
nga của tòa nhà bà Mary Carson, ngôi nhà có vẻ trơ trọi nhưng nó cũng đủ
những tiện nghi như căn nhà ở Tây Tây Lan. Đồ đạc bày biện trong nhà
theo kiểu thời Victoria, bên trên phủ một lớp bụi mỏng.
- Các bạn rất may mắn, có một phòng tắm trong nhà, linh mục dẫn đường
phía trước vừa đi vừa giải thích. Nhà xây trên các cọc khá cao vì vào mùa
con suối lớn ra đột ngột, mực nước lên rất cao, tôi nghe nói, có lần lên cao
đến 17 mét trong một đêm.
- Người ở nhà này trước đây không được sạch sẽ lắm - Fiona nhận xét mấy
ngón tay chạm vào lớp bụi phủ trên tủ buýt-phê.
Cha Ralph cười to lên.
- Đừng có mong tẩy sạch lớp bụi này - ông giải thích - Nơi chúng ta ở
thuộc vùng bên trong và có ba thứ mà bà sẽ phải chịu: sự nóng bức, bụi và
ruồi. Dù bà có làm gì đi nữa cũng không đổi khác được.
- Cha rất tốt đối với chúng tôi - Fiona nhìn linh mục nói.
- Cũng là chuyện bình thường thôi, hai ông bà là những bà con duy nhất của
người bạn tốt của tôi, bà Mary Carson.
Không để xúc động, Fiona nhún vai.
- Tôi không quen duy trì những quan hệ thân thuộc với các linh mục. Các
linh mục ở Tây Tây Lan không can dự vào việc riêng của các con chiên.
- Bà không phải là người theo đạo công giáo?
- Pađy theo đạo công giáo - Dĩ nhiên, con cái cũng được dạy dỗ theo tôn
giáo của anh ấy. Tất cả, cho đến đứa cuối cùng...
- Có phải vì thế mà bà không vừa lòng?
- Với tôi hoàn toàn không thành vấn đề.
- Bà đã được...
- Tôi không phải là kẻ đạo đức giả, thưa cha De Bricassart. Tôi đã mất
đức tin đối với chính tôn giáo của tôi và tôi không mong muốn theo một tôn
giáo khác cũng hoàn toàn vô nghĩa đối với tôi.- Tôi hiểu.
Cha Ralph quan sát Meggie đang đứng ngoài hiên trước nhà và nhìn ra con
đường dẫn đến tòa nhà lớn Droghelạ
- Con gái của bà đẹp quá. ông lại nói. Tôi vẫn đặc biệt thích mái tóc màu
vàng vơnidơ. Màu tóc ấy của cô bé sẽ khiến ngay cả danh họa Le Titien
cũng chạy tìm bút vẽ. Tôi chưa từng thấy màu tóc như thế bao giờ, có phải
đó là con gái duy nhất của bà?
- Vâng. Cứ toàn là con trai, trong gia đình của Pađy và của tôi cũng thế.
Con gái rất hiếm.
- Tội nghiệp cô bé, ông nói thầm, nhưng chẳng hiểu tại sao.
__________________
Chương 6
Lúc đầu, những con số làm cho các thành viên của gia đình Cleary sững
sờ. Drogheda có một diện tích cả trăm ngàn hecta. Đường ranh dài nhất có
tới 130 kilomet. Sáu mươi lăm kilomet và 27 cái cổng rào ngăn cách căn
nhà chính với Gillabone, điểm dân cư duy nhất nằm trong vòng 150
kilomet.
Pađy và các con trai như ở trên mây. Có khi họ ở trên lưng ngựa nhiều
ngày liền cách xa nhà nhiều kilomet. Buổi tối, họ cắm trại dười bầu trời
đầy sao khiến cho họ thỉnh thoảng tưởng như mình đã hòa nhập cùng Chúa.
Nhưng phụ nữ ở cái xứ này lại bị buộc chân ở nhà, họ thấy cuộc đời không
có gì thích thú. Họ không có điều kiện giải trí và cả lý do để leo ngồi lên
lưng ngựa. Vẫn là những công việc nhàm chán, dai dẳng như nấu nướng,
giặt đồ, quét lau, ủi quần áo, lo cho con nhỏ... Họ phải chịu đựng cái nóng
bức, bụi bặm, luôn thiếu người đàn ông để chở và bửa củi, bơm nước, mổ
gà. Trời nóng bức đến nghẹt thở, dù rằng còn đang ở đầu mùa xuân, hàn
thử biểu trong mát lên đến 30 độ. Trong nhà bếp nhiệt độ lên đến 47.
Quần áo mặc nhiều lớp, may bó chặt, trước đây để sử dụng ở Tây Tây Lan,
nơi mà nhà luôn mát lạnh. Mary Carson đến thăm căn nhà của cô em dâu
mình với mục đích quan sát coi có được vệ sinh không. Chiếc áo dài vải
trúc bâu mà Fiona mặc bó sát lên đến cổ, đường viền phía sau phết dướiđất. Trong khi Mary Carson thì mặc theo mốt mới. Chiếc áo xoa màu kem
chỉ dài đến bắp chân, tay rộng, thân không bó và cổ hở thấp.
- Fiona ơi, cô thật là cũ rích - Mary Carson nhận xét.
Bà ta liếc nhìn phòng khách, các bức tường được sơn lại màu kem; sàn nhà
lót bằng những tấm thảm Ba Tư, đồ đạc bày biện đắt tiền và tinh tế, khiến
cho bà phải chú ý.
- Tôi không có thì giờ để có thể làm khác hơn - Fiona trả lời bằng giọng
khô khan.
- Cô có nhiều thời giờ hơn ở đây, vì đàn ông thường vắng mặt. Hãy cắt
ngắn chiếc áo lại, vất đi những cái váy và cả coocxê, nếu không cô sẽ chết
ngạt thở khi mùa hè đến. Nhiệt độ có thể tăng lên khoảng một chục độ, cô
có biết không? Mắt bà Mary dừng lại bức chân dung của một phụ nữ đẹp,
tóc vàng, ăn mặc mốt của Nữ hoàng Engénie - Ai đây? - Bà vừa hỏi vừa
đưa tay chỉ về bức vẽ.
- Bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Còn bàn ghế, các tấm thảm này ở đâu ra?
- Của bà ngoại tôi.
- Ồ, thật à? Fiona thân mến của tôi, hình như cô vỡ mộng?
Fiona vẫn bình tĩnh, hai môi mím lại.
- Tôi không nghĩ như vậy. Tôi đã lấy được một người chồng đôn hậu, chị
cũng cần biết điều đó.
- Nhưng không có một đồng xu. Họ riêng của em là gì?
- Armstrong.
- Ồ, thật à? Có phải là bà con phía Roderick Armstrong?
- Roderick là tên của anh cả tôi.
Mary Carson đứng dậy, tay chạm mạnh vào chiếc nón rộng vành để xua
đuổi những con ruồi không biết kiêng nể bất cứ ai.
- Quả thật, cô sinh ra trong một gia đình khá hơn dòng họ Cleary, tôi phải
nhìn nhận điều này. Cô yêu Pađy đến mức nào mà bỏ tất cả như thế?
- Điều đó chỉ liên quan đến tôi - giọng Fiona nói đều đều - Nói không liên
quan đến chị. Tôi tránh nói về chồng tôi, kể cả với chị ruột anh ấy.
Nếp nhăn hai bên mũi Mary Carson càng rõ nét, bà trố mắt.- Cô dễ bị tự ái quá.
Sau này Mary Carson không đến nhà em dâu nữa nhưng bà Smith, quản gia
của Mary Carson lại đến thường xuyên và khuyên Fiona nên đổi thay cách
ăn mặc.
Trước khi chia tay, Mary Carson nói:
- Trong phòng tôi có một chiếc máy may ít khi sử dụng. Tôi sẽ bảo hai
người khiêng qua cho cô. Khi nào tôi cần, tôi đến đây sử dụng (Mắt của bà
nhìn về phía bé Hal đang nằm chơi trên sàn nhà). Tôi rất thích nghe tiếng
trẻ con líu lo, bà Cleary ạ.
Meggie sống khá cô độc. Bọn con trai chỉ còn lại có Stuart ở nhà. Jack và
Hughie theo cha để học nghề chăn cừu, Stuart không có nhiều thì giờ ở bên
cạnh Meggie như những anh trai khác. Cậu ta sống với thế giới riêng vốn
không ồn ào, thích ngồi hàng giờ quan sát đàn kiến nối đuôi nhau hơn là
leo trèo trên cây, trò chơi mà Meggie rất thích, nhất là trèo trên những cây
bạch đàn Úc châu đẹp tuyệt.
Tuy nhiên Meggie và Stuart không phải lúc nào cũng có thì giờ dư dả để
nhìn kiến và leo cây, cả hai phải làm việc rất dữ: bửa củi và khiêng củi,
đào hố rác, trồng rau trong vườn, chăm sóc gà vịt và heo. Cả hai cũng
được học để biết cách giết rắn mặc dù vẫn rất sợ chúng.
Mấy năm gần đây mưa rất ít, suối cạn nước, những bồn chứa chỉ còn phân
nửa. Cỏ còn đẹp nhưng không thể so sánh với lúc hoa lá xanh tươi.
- Có lẽ tình hình sẽ tệ hơn - Mary Carson nói với giọng chán nản.
Những người dân ở đây phải trải qua nạn lụt trước khi đối đầu với nạn hạn
hán dữ dội. Vào giữa tháng giêng, cái gió mùa hướng Bắc - Tây thổi qua
vùng này. Những ngọn gió lớn đổi hướng bất thường mặc sức hoành hành.
Có khi chỉ những điểm xa nhất phía Bắc của lục địa chịu những trận mưa
hè như thác; có khi, những trận mưa ấy tràn xuống phía dưới, làm cho mùa
hè trở nên ẩm ướt. Năm đó, vào tháng giêng, mây đen nghịt bị những cơn
gió xé toạc ra từng mảnh. Mưa bắt đầu đổ xuống, hồng thủy, trời đất gầm
rú liên tục.- Gió mùa tới. Blue Williams, người chở mướn qua nhiều vùng ghé lại
Droghela, vừa vấn thuốc hút vừa nói - Sông Cooper, sông Barcoo, và sông
Diamantia phình to ra, còn sông Overflow vỡ bờ. Cả vùng bên trong
Queensland sẽ ngập dưới 60 centimet nước; phải rất khó khăn nếu muốn
tìm ra một nơi cao để bảo vệ đàn cừu.
Bỗng chốc mưa đến. Pađy và các con trai làm việc thật vất vả để đưa các
đàn cừu rời khỏi những vòng rào phía dưới. Cha Ralph đến tiếp tay rất
nhiệt tình. ông thắng yên ngựa và đi cùng Frank, với những đàn chó săn
giỏi nhất để di chuyển đàn súc vật về những khu đất rào kín gần rìa con
sông Barwon. Trong khi đó Pađy và hai người làm công, mỗi người có
một cậu con trai đi theo lại chạy về hướng khác.
Cha Ralph trông chẳng khác một nhà chăn nuôi sành sỏi. ông cỡi con ngựa
sắc hồng thuần chủng - quà tặng của bà Mary Carson - mặc quần da, chân
mang giày bốt bóng loáng, thân người chắc nịch bó sát trong chiếc áo màu
trắng tinh, tay áo xắn lên cao, cổ áo mở rộng để lộ ra phần ngực rám nắng.
Còn Frank thì mặc quần dài bạc màu, ở phía dưới đầu gối được bó lại
bằng những mảnh da cănguru, người anh mặc một chiếc áo ngắn sát nách
bằng nỉ mỏng màu xám, khiến Frank trở nên nghèo nàn bên cạnh cha Ralph.
Quả thật là thế - Frank, nhếch mép nghĩ thầm - nhìn theo cái dáng người
thẳng của cha Ralph trên lưng con ngựa cái nhanh nhẹn xuyên qua cây
thông và hoàng dương bên kia con suối nhỏ. Con ngựa của cha Ralph lông
đốm, một con vật tính khí dữ dằn, bướng bỉnh, luôn tỏ ra căm ghét đồng
loại. Được kích động, bầy chó chạy tứ tung, sủa loạn lên và cắn lẫn nhau.
Răng nanh của chúng nhe ra bắt buộc cha Ralph phải vung những đường
roi để trấn áp. Không có gì là không thể làm được ở con người này. ông
biết cả huýt gió để ra lệnh đàn chó trở lại nhiệm vụ và sử dụng ngọn roi
khéo léo hơn cả Frank.
Khi trời nhá nhem tối, cha Ralph và bầy chó, với sự tiếp sức không có
hiệu quả mấy của Frank đã đưa được đàn cừu đến bãi đất thứ nhất, thường
thì công việc ấy phải mất nhiều ngày. Linh mục vừa tháo yên ngựa ở một
lùm cây gần bãi đất thứ hai, hào hứng cho rằng họ có thể lập lại thành tích
đưa đàn cừu đến một bãi khác trước khi trận mưa ào tới. Mấy con chó nằmtrên cỏ, lưỡi thòng ra, tìm cách ve vãn cha Ralph. Frank kéo ra từ trong túi
trên lưng ngựa những miếng thịt cănguru bầy nhầy và quẳng cho nó. Chúng
cắn nhau giành giật.
- Đồ súc vật! Frank nói lầm bầm. Chúng nó không như loài chó nhà. Đúng
là những con chó rừng.
- Theo tôi nghĩ có lẽ chúng gần gũi với điều Chúa muốn hơn so với chó
nuôi trong nhà. Cha Ralph nói lại nhẹ nhàng. Nhanh nhẹn, thông minh, hung
hăng, phần nào thuần hóa. Tôi vẫn thích chúng hơn là chó nuôi làm bạn.
Mèo cũng thế - Anh có nhận thấy, những con mèo lảng vảng xung quanh
nhà? Hoang dại và hung dữ không thua những con beo; chúng không cho
người đến gần. Nhưng chúng săn chuột tuyệt vời và không cần ai nuôi.
Cha Ralph lấy ra từ trong túi đặt trên lưng ngựa một miếng thịt cừu đông
lạnh và một gói bánh mì, bơ. Cắt một miếng thịt trao cho Frank, ông để
bánh mì và bơ giữa hai người, trên một khúc cây đốn ngã. Ông cắn vào
miếng thịt ngon lành. Cả hai cùng uống nước trong một túi da và vấn thuốc
hút.
- Này Frank, hình như anh không vui?
Cha Ralph hỏi với một tiếng thở ra, tay vấn điếu thuốc thứ hai.
Frank ngồi cách linh mục khoảng một mét rưỡi; anh quay phắt đầu lại, nhìn
cha Ralph với vẻ dò xét.
- Hạnh phúc là thế nào?
- Anh có thể tìm ra một thí dụ. Cha và các em của anh đều rất hạnh phúc, ít
ra lúc này. Nhưng anh thì lại khác. Mẹ anh cũng thế và cả em gái Meggie
của anh đều không thích Úc châu?
- Tôi không thích vùng này. Tôi muốn đi Sydney; ở đó tôi hy vọng có lối
thoát.
- Sydney. Đó là một nơi dễ sa ngã - Cha Ralph cười nói.
- Tôi cóc cần! Ở đây tôi cũng lại bị kẹt cứng như ở Tây Tây Lan. Tôi muốn
trốn khỏi ông ấy.
- Ông ấy?
Frank nói một cách đột ngột và từ chối nói thêm. Nằm ngửa, Frank ngước
mắt nhìn lên tán cây.- Anh bao nhiêu tuổi, Frank?
- Hai mươi hai.
- À, tất nhiên! Có lần nào anh xa gia đình chưa?
- Chưa.
- Anh có đi khiêu vũ lần nào chưa? Chắc đã có?
- Chưa.
- Thế thì ông ấy sẽ không giữ được anh lâu.
- Ông ta sẽ giữ tôi đến chết.
Cha Ralph ngáp dài và chuẩn bị ngủ.
- Chúc ngủ ngon - ông nói trong miệng.
Hôm sau dù mây vần vũ nhưng trời vẫn chưa mưa và hai người đã giải tỏa
được bãi chăn thứ hai.
Mưa bắt đầu đổ xuống và buổi chiều lúc Frank và linh mục phi ngựa đến
chỗ cạn của đoạn suối gần nhà.
Nhưng khi qua bên kia bờ thì người và ngựa không thể lên cùng lúc vì dốc
đứng và trơn trợt. Họ phải để ngựa lên trước, cả hai còn lại leo lên tuột
xuống mấy lượt.
Nhờ thấy hai con ngựa không có chủ về nhà, Pađy đoán ra chuyện không
hay của hai người. Ông đến bên bờ suối với dây thừng kéo cha Ralph và
Frank lên.
Pađy mời cha vào nhà thay quần áo ấm nhưng cha cười lắc đầu từ chối.
- Mọi người đang chờ tôi ở Nhà Lớn - ông nói. Mary Carson nghe tiếng
cha Ralph gọi cửa trước khi đám gia nhân nghe thấy. Ông đã đi vòng ra
phía trước tòa nhà dự tính đi thẳng vào phòng.
- Cha không thể vào nhà trong tình trạng này, người lấm bê lấm bết - Bà
Mary Carson đứng trong hiên nói với Ralph.
- Vậy xin bà đưa giúp tôi mấy cái khăn và chiếc valị
Không chút ngượng nghịu, bà quan sát cha Ralph trong khi ông cởi áo, cởi
giày bốt. Ông tựa vào cửa sổ phòng khách dùng khăn để lau bùn.
- Cha là người đàn ông đẹp nhất mà tôi được nhìn, Ralph ạ - Tại sao cólắm linh mục đẹp như thế. Phải chăng vì có dòng máu Ái Nhĩ Lan. Tất
nhiên, đó là một dân tộc đẹp, những người Ái Nhĩ Lan. Có phải những đàn
ông đẹp đi làm linh mục để thoát khỏi sự quyến rũ của chính họ. Tôi đánh
cuộc với cha rằng tất cả thiếu nữ ở Gilly đều ao ước cha.
- Từ lâu tôi có thói quen không để ý đến các cô gái si tình - ông trả lời vui
vẻ - Bất cứ linh mục nào dưới 50 tuổi đều co thể là mục tiêu của một số
các cô và một linh mục dưới 35 thì dứt khoát các cô phải mê rồi. Nhưng
chỉ có các cô gái theo đạo Tin lành là muốn chinh phục tôi một cách công
khai.
- Cha không trả lời thẳng câu hỏi của tôi.
Mary Carson đứng thẳng người lên, đến sát cha Ralph đặt lòng bàn tay của
mình lên ngực linh mục và giữ nguyên ở đó.
- Sự đòi hỏi của phụ nữ có làm cha ray rứt không, cha Ralph?
- Không, ông trả lời, đầu ông ngả về phía sau trong một động tác bày tỏ sự
khinh miệt.
- Với đàn ông thì có lẽ?
- Còn tệ hơn phụ nữ. Không, không có đòi hỏi nào giày vò tôi.
- Hay cha chỉ yêu chính cha mà thôi?
- Càng ít hơn bất cứ ai.
- Thật lý thú. Bà đi vòng quanh cha Ralph và quan sát linh mục. Ralph,
Hồng Y De Bricassart - giọng Mary Carson mỉa mai.
Đầu tháng hai, cuộc sống thay đổi đột ngột với Meggie và Stuart. Cả hai
được gởi đi học nội trú ở tu viện Gillabone vì không có trường nào gần
hơn. Pađy cho biết khi tới tuổi, Hal sẽ học theo phương pháp hàm thụ của
trường trung học Blacfriard ở Sydney. Còn bây giờ vì Meggie và Stuart
quen học với thầy nên phải gởi đi học ở tu viện Saint Croix, tiền nội trú
được bà Mary Carson chi rộng rãi. Còn Jack và Hughie sẽ không đi học
nữa, Drogheda cần chúng và cả hai đều thích sống với đất đai.
Meggie và Stuart trải qua một cuộc sống êm đềm ở tu viện Saint Croix, rất
khác so với những ngày chúng học Trường Thánh Tâm ở Wahine. Cha
Ralph đã tế nhị cho các nữ tu biết ông bảo trợ cho hai đứa bé và khéo léo
nhắc đến người cô của chúng là một phụ nữ giàu nhất ở New South Wales.Do đó mà sự rụt rè của Meggie được xem như một đức tính tốt và cuộc
sống tách rời, cô độc của Stuart, thói quen nhìn vào khoảng không, giờ này
sang giờ khác, lại được coi là thánh thiện.
Cha Ralph thường đến thăm Meggie và Stuart, đón cả hai về nhà xứ đều
đặn đến nỗi ông quyết định cho sơn căn phòng được dành cho Meggie -
bằng màu xanh dịu - ông cho treo màn mới và thay khăn trải giường. Stuart
thì tiếp tục ngủ trong căn phòng trước đây sơn màu kem bây giờ ngả sang
màu nâu. Cha Ralph không hề tỏ ra quan tâm Stuart ở đây có vui không. Sự
hiện diện của Stuart là phụ thuộc, cậu ta được mời về chỉ do sự tế nhị bắt
buộc mà thôi.
Cha Ralph cũng không biết tại sao ông lại mến Meggie đến thế, và trong
thâm tâm ông cũng không khi nào tự hỏi về điều này . Đầu tiên ông cảm
thấy thương hại cô bé khi nhìn thấy lần đầu ở sân ga đầy bụi, Meggie đứng
tách riêng một mình, có lẽ vì là con gái duy nhất trong gia đình. Ông kết
luận như vậy. Nhưng ngược lại, linh mục không lưu tâm đến Frank cũng
đứng một mình ngoài vòng gia đình; ông không hề thương hại cậu thanh
niên ấy. Còn Meggie, cô bé làm cho linh mục xúc động sâu xa mặc dù ông
không biết tại sao. Màu tóc của Meggie khiến cho ông bị mê hoặc. Màu và
hình dáng của đôi mắt làm nhớ đến đôi mắt rất đẹp của Fiona, nhưng dịu
dàng gấp bội và đáng yêu hơn. Và tính tình của Meggie theo ông đó là cái
tính lý tưởng của người phụ nữ: thụ động, nhưng kiên quyết trước mọi thử
thách. Không có sự nổi loạn ở Meggie, trái lại, cả đời Meggie sẽ khuất
phục, chấp nhận sống bên trong những ranh giới của số phận người phụ nữ.
Tuy nhiên, không phải chỉ có những điều đó làm Ralph quý mến Meggie;
mà trong sâu xa, tình cảm đối với cô bé này xuất phát từ một pha trộn của
thời gian, nơi chốn và cá tính. Không ai coi cô bé ra gì, điều đó gây nên
một khoảng trống trong cuộc đời của Meggie, cái khoảng trống ấy ông có
thể làm đầy và chắc chắn sẽ nhận được tình thương của cô bé. Meggie lại
là một đứa trẻ con và như thế không gây nên lời ra tiếng vào nào cho lối
sống và tiếng tăm của linh mục. Cô bé rất đẹp và ông say mê với cái đẹp
ấy . Điều đó khó có thể chấp nhận, cô bé đã lấp cái khoảng trống của
cuộc đời ông, cái khoảng trống mà Chúa của ông không thể lấp được, vìrằng cô bé có một sức hấp dẫn và một nhân cách rõ nét. Để không gây sự
khó chịu cho gia đình Cleary khi ông thường xuyên tặng quà cho Meggie,
ông đã dành tất cả thời gian mà ông có thể có được - thời giờ và cả tâm trí
- để trang hoàng căn phòng của Meggie ở trong nhà xứ, với mục đích được
thấy cô bé vui, hơn là để có một nơi để đặt viên ngọc quí Meggie.
__________________
Chương 7Frank không về nhà từ mười lăm ngày nay. Anh ta theo người chăn nuôi già
tên Peter Cái Thùng, với đàn chó, hai con ngựa, một chiếc xe nhỏ do một
con ngựa tồi kéo dùng để chở đồ dự trữ, họ đến những vùng bãi chăn cừu
xa nhất về hướng Tây đưa cừu về. Công việc mất thời giờ, chậm chạp và
nhạt nhẽo không như việc tập hợp cừu vội vã vào thời điểm sắp sửa có lụt.
Nơi cắt lông cừu chỉ có thể nhận cùng một lúc mười ngàn con vì vậy khâu
tuyển lựa rất cần thiết.
Khi Frank bước vào nhà bếp, anh gặp ngay mẹ đứng bên bể rửa chén dĩa,
vẫn lúi húi vào thứ công việc không bao giờ kết thúc: gọt khoai.
- Mẹ ơi, con về rồi! Anh vui mừng báo tin.
Bà quay lại Frank, ngạc nhiên nhìn lên; hai tuần lễ xa nhà cái nhìn của anh
sắc hơn.
- Trời ơi...! Frank lầm thầm trong miệng.
Trong đôi mắt của Fiona không thấy có niềm vui gặp lại con, gương mặt đỏ
lên xấu hổ, hai tay bà đặt lên tạp dề độn tròn như để che giấu điều mà áo
quần không thể che được.
- Con dê già ấy thật gớm ghiếc! Frank kêu lên, tay chân run rẩy.
- Frank! Mẹ không cho phép con được nói như thế. Con lớn rồi. Con phải
hiểu biết. Chính con cũng chào đời bằng kết quả như thế. Điều này không
có gì xấu xa; khi con chửi cha con, con đã chửi cả mẹ rồi đấy!
- Ông ta không có quyền! Đáng ra ông ta phải để mẹ yên. Frank chống chế
lại, miệng rít lên sùi bọt mép.
- Không xấu xa đâu, Frank - bà lặp lại bằng giọng mỏi mệt và nhìn Frank
bằng đôi mắt sáng trong - không xấu xa đâu, Frank, không xấu xa hơn hành
động để cho một đứa trẻ sinh ra đời.
Lần này thì Frank đỏ mặt lên. Anh không dám nhìn thẳng mẹ; anh nhìn đi
nơi khác rồi về phòng chung với Bob, Jack và Hughie. Mấy bức tường
trống trơn, những chiếc giường chật như trêu chọc Frank, bêu riếu sự có
mặt của anh; đây là nơi ngủ buồn tẻ của Frank, không có người nào khác để
gây hơi ấm và cũng chẳng có chút gì gọi là thiêng liêng. Và lúc ấy trong
anh hiện lên gương mặt của mẹ, nét đẹp mệt mỏi, với quầng sáng của mái
tóc vàng óng ánh tỏa ra như một vầng hào quang, sung sướng vì cảm nhậntrong bụng mình cái kết quả đã cùng con dê già lông lá cấu tạo giữa cái
nóng oi bức của mùa hè.
Anh ta không thể xua đuổi nỗi ám ảnh ấy, không thể tách rời mẹ với những
suy nghĩ đen tối đang vây hãm mình. Rồi những đòi hỏi tự nhiên của lứa
tuổi và sự sung mãn của người đàn ông đã dậy lên ở anh ra. Bình thường,
Frank xua đuổi được những ý tưởng ấy khỏi đầu óc nhưng khi mẹ anh ta
phô bày ra trước anh sự hiển nhiên của chuyện dâm dục, và cái hành vi bí
ẩn đã thực hiện với con thú già đa dâm ấy thì... Làm sao Frank có thể chấp
nhận được, chịu đựng được? Frank mong muốn nghĩ về mẹ như một người
hết sức thánh thiện, trong trắng như Đức Mẹ đồng trinh, một người phụ nữ
vượt lên trên hành động tầm thường mặc dù tất cả phụ nữ, ở khắp thế gian,
đều phạm tội ấy. Cảm thấy mẹ đánh mất cái ý tưởng đẹp mà anh vốn trân
trọng, Frank phát điên lên. Để đầu óc được bình tỉnh, Frank cần phải tưởng
tượng rằng mẹ mình nằm kế bên lão già ghê tởm ấy trong sự trong trắng
hoàn toàn, chỉ để ngủ, và trong đêm cả hai không quay mặt lại nhau, cũng
không hề chạm nhau - Trời ơi!
Tiếng lanh lảnh của kim loại khiến Frank nhìn xuống; anh nhận ra là mình
đang bóp vẹo cái thanh sắt giường.
- Tiếc quá, mày không phải là cha tao! Anh nói với thanh sắt.
- Frank, Fiona đứng ở cửa phòng gọi Frank. Anh ngước nhìn mẹ bằng đôi
mắt đen, sáng quắc, nhưng ướt đẫm như hòn than dưới mưa.
- Trước sau gì con cũng giết ông ta - giọng Frank gầm gừ.
- Và rồi con sẽ giết luôn mẹ chứ gì! Fiona vừa nói vừa đến ngồi bên
Frank.
- Không, con sẽ giải thoát mẹ! Frank đáp lại, giọng sôi nổi, lòng nung nấu
bởi một hy vọng điên rồ.
- Frank à, mẹ sẽ không bao giờ được tự do. Hơn nữa mẹ cũng không muốn
được tự do. Mẹ muốn tìm hiểu sự mù quáng của con từ đâu mà ra, vậy mà
mẹ không thể hiểu được. Nhưng có điều chắc là không phải từ mẹ, mà cũng
không từ cha con. Mẹ biết con không có hạnh phúc, nhưng tại sao con trút
tất cả lên mẹ và cha? (Bà nhìn hai tay mình, rồi nhìn lên Frank). Đáng lý
mẹ không nói điều này với con, nhưng mẹ nghĩ cần phải nói. Frank à, đãđến lúc con cần có người bạn gái, để sau này xây dựng một mái ấm gia
đình. Drogheda không thiếu chỗ đâu; về chuyện này mẹ không âu lo cho
các em con; các em con bản tính không giống con. Nhưng còn con, con cần
một người vợ. Frank à. Khi có vợ, con không có thời giờ để nghĩ đến mẹ
nữa.
Frank ngồi quay lưng lại mẹ, anh không muốn phải nhìn thẳng vào mẹ. Hơn
năm phút đã trôi qua, bà vẫn ngồi trên giường với hy vọng Frank sẽ nói
điều gì đó, nhưng rồi bà thở dài, đứng lên và rời khỏi phòng.
__________________
Chương 8
Sau khi các thợ cắt lông cừu đã đi, lúc mà cả vùng trở lại sự yên tĩnh bình
thường của mùa đông thì ngày lễ hàng năm của Gillanbone lại đến. Cuộc
vui kéo dài hai ngày, Fiona cảm thấy không khỏe lắm nên không tham dự,
còn Pađy phải lái xe Rolls Royce đưa Mary Carson lên tỉnh.
Mọi người đều dự các cuộc vui. Mấy đứa con trai của Pađy, trước khi
được đi theo Peter Cái Thùng, đều bị hăm dọa đủ điều nếu ai đó gặp chúng
phá phách. Riêng Frank đi thật sớm, một mình trên chiếc ô tô Ford. Tất cả
người lớn đều ở lại đến ngày mai để dự cuộc đua ngựa. Bà Mary Carson,
vì những lý do riêng, đã từ chối lời mời của cha Ralph đưa bà đến nghỉ
đêm ở nhà xứ, nhưng ngược lại nằng nặc bảo Pađy và Frank nhận lời cha
Ralph.
Sau khi đưa chị đến khách sạn Hoàng Gia, Pađy xuống quầy rượu và gặp
Frank, tay cầm một cốc bia.
- Ba đãi con sau - Pađy nói nhỏ nhẹ với con - Ba phải đưa cô Mary đi ăn
cơm trưa ngoài trời trước khi đi xem đua ngựa và ba cần được thoải mái
trước khi phải chịu đựng một cuộc thử thách với cô Marỵ
Thói quen và sự sợ sệt khó vượt qua hơn là ta vẫn thường nghĩ khi định
thoát ra khỏi sự chi phối của nó - Frank nói với mình. Anh ta tự thấy không
thể để hành động theo ý mình, không thể trút cả cốc bia vào mặt cha, nhất
là trước mặt đông đảo những khách tấp nập quanh quầy. Anh đành nuốt ực
phần bia còn lại, mỉm cười và lườm lườm nói:- Rất tiếc ba; con có hẹn với mấy thằng bạn ở chỗ lễ.
Meggie với hai bím tóc thòng xuống quá vai, mặc bộ đồng phục màu xanh
nữ sinh nội trú trường Saint Croix, theo sau một bà xơ, đi băng qua bãi cỏ
của tu viện để đến nhà xứ. Tại đây bà xơ giao Meggie cho bà quản gia của
cha Ralph; bà này rất yêu thương Meggiẹ
- Tôi yêu con bé này vì mái tóc của nó ngọt ngào như rượu tiên - bà ta giải
thích Ralph ngạc nhiên về sự say mê đó. Annie - bà quản gia - không ưa
đám con gái và thường than phiền nhà xứ ở quá gần trường học.
- Thôi đừng giải thích lung tung bà Annie ạ. Tóc là thứ vô giá trị. Bà không
thể yêu một con người duy nhất chỉ vì màu tóc - Cha Ralph ghẹo bà.
Lúc đó Frank vào, cơn xúc động sau khi gặp cha mình tại quầy rượu, đầu
óc rối loạn.
- Meggie đi với anh, anh đưa em đi hội chợ - vừa nói vừa đưa tay ra.
- Hay là cha sẽ đưa cả hai cùng đỉ Cha Ralph đề nghị. Hai bàn tay nhỏ bé
của Meggie siết chặt hai tay của hai người đàn ông mà cô bé tôn kính.
Meggie thấy mình ở bảy tầng mây.
Hội chợ tổ chức ở bên bờ sông Barson, bên cạnh trường đua ngựa.
Thái độ cha Ralph chăm sóc Meggie làm nhiều thiếu nữ ghen ghét, nhất là
hoa khôi Carmichael muốn chinh phục cha. Đi ngang một vũng nước, trong
khi hoa khôi Carmichael lúng túng với chiếc áo dài phết đất, chờ đợi một
cử chỉ galăng của cha Ralph, thì linh mục lại quay sang bế Meggie một
cách ân cần.
Ở đầu bãi đằng xa, một cái lều to sừng sững, trước lều một sàn gỗ, sau lều
treo một tấm vải với nhiều hình vẽ dữ tợn như muốn hù dọa đám đông. Một
đám người cầm máy phát âm, nói to với những người hiếu kì đang tụ tập
lại.
- Thưa các ngài, đây là đoàn võ sĩ nổi tiếng Jimmy Sharman! Tám nhà vô
địch ưu tú nhất thế giới, sẽ có một khoản tiền thưởng cho bất cứ ai trong
quí ngài muốn thử thời vận.
Các nhà vô địch đứng trên sàn gỗ cười nói với nhau tự nhiên và rất tự tin,
xem chuyện này chẳng có gì quan trọng.
- Mau lên các bạn, ai muốn đeo găng vào? Cái anh chàng cầm máy phát âmvẫn la hét. Ai muốn thử thời vận? Đeo găng vào và bạn sẽ lãnh ngay năm
bảng! Xen lẫn tiếng hét của anh ta là những hồi trống thúc giục.
- Tôi, Frank kêu to. Tôi đây!
Frank rút tay ra khỏi tay cha Ralph đang cố giữ anh lại. Đám đông cười rộ
lên khi nhìn thấy vóc người thấp nhỏ của Frank. Bọn họ đẩy Frank lên sàn
gỗ một cách vui vẻ. Nhưng anh chàng rao hàng thì lại nghiêm nghị khi một
người trong những người của đoàn đưa tay thân thiện giúp Frank bước lên
cầu thang đến chỗ của tám võ sĩ.
- Đừng có vội cười thưa quí ngài! Chàng thanh niên này không to nhưng
anh là người đầu tiên tình nguyện lên đây! Trong một trận đấu, vóc dáng
người không phải là vấn đề quyết định mà là những gì chứa trong bụng! Và
đây là một cậu bé can đảm lên thử thời vận. Các anh còn chờ đợi gì, những
chàng to khỏe, hả? Này, cậu trai hãy mang găng vào và lãnh năm bảng bằng
cách đứng vững trước một trong các nhà vô địch của Jimmy Sharman cho
đến giây phút cuối cùng!
Cha Ralph không muốn Meggie chứng kiến cảnh Frank ăn đòn nên bế xốc
cô bé lên và định quay ra. Meggie hét lên, cha Ralph càng đi ra xa, tiếng
hét cô bé càng dữ dội. Người ta bắt đầu hướng mắt về họ. Uy tín không hề
bị tai tiếng của cha Ralph trước đây có nguy cơ bị ảnh hưởng vì chuyện
này.
- Nghe đây Meggie, cha không thể đưa con vào trong đó! Ba con sẽ lột da
cha và ông ấy làm như thế là có lý.
- Con muốn ở lại với Frank! Con muốn ở lại với Frank! Cô bé cứ hét lên,
hai chân giẫy nẩy.
- Thật là rắc rối! Linh mục bực dọc.
Đành phải chịu, không thể nào làm khác hơn, cha Ralph cho tay vào túi lấy
ra vài đồng tiền và đến gần cửa lều, mắt đảo quanh sợ một trong số các
anh của Meggie bắt gặp.
- Đây không phải là cuộc trình diễn dành cho con bé này. Người bán vé rõ
ràng khó chịu.
Cha Ralph đưa mắt lên nhìn trời.
- Nếu anh có cách nào đó đưa cô bé rời xa nơi đây mà không gây ồn ào đểcảnh sát có thể bắt chúng ta về cái tội hành hung trẻ con, thì tôi sẵn sàng
đưa nó đi ngaỵ Anh cô ấy chấp nhận lên đài so găng, cô ấy không muốn bỏ
rơi anh mình.
Người bán vé nhún vai.
- Thôi thì tôi không tranh luận với cha làm gì. Xin mời vào nhưng cố làm
sao cho nó đứng yên. Không, không, cha hãy giữ tiền lại, Jimmy Sharman
không nhận tiền của cha đâu.
Đầu tiên Frank so găng với một võ sĩ hạng lông, anh hạ đo ván võ sĩ này.
Ở tiếng cồng thứ ba Frank đề nghị so găng với một đấu thủ khác. Khi anh
thi đấu đến trận thứ ba thì tiếng đồn đã lan ra nhanh như thuốc súng, trong
lều chật ních người xem, không còn một chỗ trống.
Đánh đấm là cách duy nhất mà Frank biết để trút hận thù và sự phiền
muộn. Ngay lúc anh tung ra cú đánh hạ đối thủ, hình như anh nghe một
tiếng nói xa xăm dội vào tai anh: Hãy giết ông ta! Hãy giết ông ta!
Sau đó người ta đưa ra đối đầu với Frank một võ sĩ vô địch đích thực, một
võ sĩ hạng nhẹ được chỉ thị giữ một cự ly cách xa Frank để dò xem Frank
có biết đấu quyền Anh không hay chỉ là liều lĩnh. Đôi mắt Jimmy Sharman
sáng lên. ông ta luôn đi tìm những nhà vô địch, vào các ngày hội ở vùng
quê thường giúp cho ông phát hiện vài người. Người võ sĩ hạng nhẹ theo
đúng chỉ đạo của ông, trong khi đó Frank, điên lên muốn giết đối thủ, lao
thẳng vào cái bóng luôn nhảy qua nhảy lại không ngớt né tránh. Anh rút ra
bài học, cứ mỗi lần đánh áp sát, là bị một trận mưa đòn, vì rằng Frank
thuộc vào loại người kỳ lạ có thể suy nghĩ ngay giữa lúc hung tợn điên
cuồng. Và Frank đã đứng vững đến phút cuối cùng, trước những cú đấm
dạn dày kinh nghiệm của đối phương. Một con mắt của Frank sưng vù lên,
một đường tét ở chân mày và một đường khác ở môi. Nhưng anh lãnh được
hai mươi bảng và được những người có mặt thán phục.
- Con muốn chúng ta chờ Frank hay chúng ta đi ngay?
Cô bé dựa vào cha Ralph, đầy lòng cảm ơn đối với sự yên lặng và thông
cảm mà linh mục đã dành cho.- Cha đã phải tự hỏi tại sao con lại khiến trái tim vô nghĩa của cha chịu
một thử thách gay go như thế - linh mục nói thầm (ông nghĩ rằng cô bé sẽ
rất buồn và khổ mà nghe ông nói nhưng ông có nhu cầu phải bày tỏ các suy
nghĩ của mình thành tiếng, đấy là trường hợp thường xảy ra ở những kẻ
sống độc thân). Con không làm cho cha nhớ đến mẹ và cha cũng không có
em, cha muốn biết yêu thuật nào ẩn núp trong con và trong gia đình tội
nghiệp của con cũng thế... Mọi việc có quá khó khăn cho con kh#79ng, hỡi
cô bé Meggie của cha?
Frank bước ra khỏi lều, một miếng băng dính trên chân mày, tay chậm lên
môi. Lần đầu tiên từ khi cha Ralph biết Frank, ông thấy anh ta có vẻ vui
lên. Tưởng như Frank vừa trải qua một đêm yêu đương với một người phụ
nữ - cha Ralph nghĩ thầm như thế.
Khi Pađy bước vào phòng khách của nhà xứ để tìm Frank thì Meggie và
cha Ralph đang đứng quanh ngọn lửa, thoải mái như trải qua một ngày vui,
tuyệt vời. Điều đó khiến cho Pađy bực bội. Không có vợ bên cạnh, Pađy
cảm thấy thiếu vô cùng. Đối với chị Mary Carson, Pađy vẫn giữ sự ác cảm
không khác gì thời ông còn là một cậu bé ở Ái Nhĩ Lan. Đúng lúc đó ông
chú ý đến cái băng dính trên chân mày của Frank và gương mặt sưng phù;
một cái cớ từ trên môi rơi xuống để cho ông trút ra bao nhiêu thứ bực bội.
- Với cái mặt thế này thì làm sao mày dám về nhìn mặt mẹ mầy! - Ông rầy
to. Chỉ cần tao buông lơi một chút là mầy lại sẵn sàng vồ lấy thằng nào đầu
tiên lườm mày.
Sửng sốt, cha Ralph bật ngồi dậy và nói vài tiếng để xoa dịu Pađy, nhưng
Frank đã phản ứng trước.
- Con đã kiếm tiền bằng cách này đây - Frank nói rất khẽ, tay chỉ cái băng
dính - Hai mươi bảng trong vài phút lao động, hơn cả số tiền cô Mary trả
cho chúng ta, ba và con, trong một tháng! Con đã đánh ngã ba võ sĩ giỏi và
đứng vững trước một nhà vô địch hạng nhẹ trong lều của Jimmy Sharman
trưa này. Con đã lãnh 20 bảng! Điều này nó không dính dấp đến những gì
ba thường nghĩ về con. Tất cả mọi người chứng kiến trận đấu đều nể nang
con.
- Thắng vài thằng khốn khổ mệt mỏi và bầm dập vì bị đấm, chỉ xuất hiệnđể lòe thiên hạ trong các ngày hội ở nhà quê thế mà mày lại phách lối. Phải
biết cư xử như một người đã trưởng thành, Frank. Tao biết có thể mày đã
không thể cao hơn nhưng hãy vì mẹ mày, để cái đầu của mày lớn ra!
Mặt Frank tái nhợt đi! Như những miếng xương trắng phếu dưới mặt trời.
Với anh, đây là sự sỉ nhục kinh khủng nhất từ trước tới nay. Hơi thở của
Frank nghe rít lên nhưng vẫn cố giữ hai tay ở yên hai bên sườn hông.
- Họ không phải là những tên khốn khổ bị bầm dập bởi những cú đấm, thưa
ba. Ba đã nghe danh Jimmy Sharman nhiều không thua con và chính hắn ta
nói với con rằng con sinh ra là một võ sĩ và trư;ớc mặt con là một tương
lai sáng. Hắn muốn mướn con vào đoàn và rèn luyện, và sẽ trả lương cho
con! Có thể con không còn lớn nữa nhưng con đã đủ lớn để dạy cho bất cứ
ai một bài học... Lời nói ấy có giá trị cho cả ba nữa, con dê già thối tha!
Những tiếng cuối cùng hạ thấp giọng vẫn lọt vào tai của Pađy. Mặt ông tái
nhợt không thua mặt con khi ông biết Frank ám chỉ mình.
- Sao mày dám nói thế?
- Ba không là cái gì khác hơn. Ba đáng ghê tởm. Còn tồi tệ hơn cừu đực
động đực! Tại sao ba không để mẹ con yên? Ba không thể tự kìm chế việc
dùng mẹ con để tìm khoái lạc hả?
- Đừng, đừng, đừng! Meggie hét to lên. Mấy ngón tay của cha Ralph cắm
mạnh vào hai vai Meggie như móng chim mồi để cố giữ cô bé sát vào
mình. Nước mắt ràn rụa trên mặt, Meggie cố vùng vẫy hết sức mình nhưng
vẫn không thể thoát ra. ...
- Đừng ba, đừng! Frank ơi, em van anh! Em van anh! Cô bé la lên giọng
hốt hoảng.
Nhưng chỉ có cha Ralph là nghe cô bé. Frank và Pađy xáp lại đối diện
nhau. Lòng căm hờn và sự e sợ đều bị lột trần. Con đê trước kia ngăn chặn
hai người - tình yêu cả hai dành cho Fiona - đã bị vỡ, giờ đây sự đối đầu
ngấm ngầm đã bộc lộ công khai.
- Tao là chồng. Và Chúa đã giáng phúc cho cuộc kết hợp giữa hai vợ
chồng tao bằng cách mang lại cho hai vợ chồng tao nhiều con cái, Pađy nói
với giọng bình tĩnh hơn, cố gắng tự chủ.
- Ba không xứng đáng hơn một con chó già dơ dáy chạy theo sau bất cứcon chó cái nào để tìm cách nhảy đực!
- Còn mày, mày không hơn gì con chó già dơ dáy đã đẻ ra mày mà tao
không hề biết đó là con chó nào! Pady hét lên. Rất may, nhờ ơn Chúa, tao
không có dính dấp gì vào chuyện ấy. Trời ơi, tại sao tôi đã nói như thế...
Pađy chợt im bặt; sự điên tiết của ông tan biến nhanh như gió. Ông ta muốn
ngã quỵ xuống, co rúm lại, hai tay đưa lên bụm miệng, tưởng như ông muốn
rứt cái lưỡi đã thốt ra điều không bao giờ có quyền thốt ra.
- Tôi không muốn nói điều đó, Pađy than khóc - Tôi không muốn nói điều
đó!
Ngay lúc những lời ấy thoát khỏi miệng Pađy, cha Ralph buông Meggie ra
và chạy ngay tới Frank. Ông bẻ vặn cánh tay Frank ra sau lưng, cánh tay
còn lại ông kẹp cổ anh tạ ông rất to khỏe và cái khóa ấy giữ chặt Frank;
Frank vùng vẫy để thoát ra nhưng rồi đột ngột sự chống trả của anh tan
biến và anh lắc đầu ra dấu khuất phục - Meggie quỵ xuống sàn nhà, quỳ gối
và khóc, mắt hết nhìn anh rồi nhìn cha với sự van xin bất lực. Cô bé không
hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng biết rằng sau chuyện này thì mình sẽ không
còn giữ đủ cả hai.
- Đừng chối, thật sự ông muốn nói ra điều ấy. Đáng lý tôi đã biết điều đó.
Cha hãy buông tôi ra. Tôi không đụng tới ông ta đâu. Cầu xin Chúa giúp đỡ
tôi.
- Cầu xin Chúa giúp đỡ các người? Cầu Chúa khiến cả hai mục xương
dưới địa ngục! Nếu các người làm chấn thương tâm thần con bé này, tôi sẽ
giết các người. - Cha Ralph lớn tiếng, người duy nhất bây giờ nổi giận -
Các người có biết rằng tôi đã giữ con bé ở lại đây là để ngăn cản cả hai
cấu xé nhau chớ đâu phải để nghe những điều tồi tệ ấy. Đáng lý tôi cứ để
hai người tha hồ giết nhau, đồ ích kỷ, ngu đần và khốn nạn.
- Thôi được rồi, tôi đi đây - Frank nói bằng một giọng xa lạ, trống rỗng. -
Tôi sẽ sung vào đoàn của Jimmy Sharman và vĩnh viễn tôi sẽ không trở lại
đây.
- Con phải trở lại đây! Pađy nói lớn - Ba sẽ ăn nói sao đây với mẹ con?Mẹ con yêu con hơn tất cả những người khác cộng lại. Bà ấy sẽ không bao
giờ tha thứ cho ba.
- Ông cứ nói là tôi đã sung vào đội Jimmy Sharman vì tôi muốn trở thành
một người có tên tuổi. Đó là sự thật.
- Điều mà ba đã nói... không đúng sự thật đâu Frank.
Đôi mắt đen, đôi mắt xa lạ của Frank ném một tia nhìn khinh miệt. Chính
đó là đôi mắt gây ngạc nhiên cho cha Ralph ở lần đầu ông gặp chàng thanh
niên. Tại sao Fiona thì mắt nâu còn Pađy mắt xanh lại đẻ ra đứa con trai
mắt đen? Cha Ralph biết định luật di truyền Medel, do đó bản thân ông đã
rút ra kết luận.
Frank lấy áo măng tô và nón.
- Trời ơi, đúng như thế! Tôi vẫn nghi ngờ điều ấy. Tôi vẫn nhớ hình ảnh
mẹ tôi ngồi chơi đàn Claxeven trong một phòng mà ông không làm sao có
được! Tôi vẫn linh cảm là ông không hề có mặt ở đó, ông đã đến với mẹ
tôi sau tôi. Và khi nhớ lại suốt bao năm tháng tôi thù ghét ông vì ông hành
hạ mẹ tôi. Chính tại tôi!
- Không tại ai hết, Frank ạ, không do ai hết. - Cha Ralph cố xoa dịu Frank
- Con không hiểu hết những con đường bí ẩn của chúa, con phải nhìn các
sự việc theo cách đó.
Frank rút tay ra khỏi bàn tay cha Ralph đang nắm chặt anh, rồi đi ra cửa
bằng những bước nhẹ nhàng, êm ả - Không thế chối cãi anh ta sinh ra đã là
võ sĩ - Cha Ralph nghĩ thầm.
- Những con đường bí ẩn của Chúa! Chàng thanh niên mỉa mai, giọng nói
vang lại từ ngoài cửa - Cha chỉ là một sinh vật khi cha đóng vai linh mục,
thưa cha De Bricassart! Riêng tôi, tôi nói Chúa đã đến cứu giúp cha, cứu
giúp riêng cha ma thôi, vì rằng cha là người duy nhất ở đây không mảy may
biết một chút nào về con người thật ấy.
Pađy ngồi sụp xuống trên chiếc ghế bành, mặt xám xịt, nhớn nhác, mắt nhìn
Meggie trân trân, trong khi đó Meggie ngồi trước lò sưởi khóc sướt mướt.
Pađy định đứng dậy ôm con gái mình nhưng cha Ralph chăn lại.
- Hãy để con bé yên. ông gây cho nó bao nhiêu đớn đau như thế đủ rồi. ông
có thể tìm rượu whisky trong tủ và uống vài hớp đi. Tôi đưa con bé vàophòng cho nó nghỉ, nhưng tôi sẽ trở lại nói chuyện với ông. Vậy ông đừng
rời khỏi đây. ông nghe tôi nói chứ?
- Tôi chờ cha, thưa cha. Cha đặt Meggie lên giường dùm tôi.
Trên gác, trong căn phòng sơn màu xanh nhạt xinh xắn, linh mục cởi chiếc
áo ngoài và bộ đồ bó sát bên trong của Meggie và đặt cô bé ngồi trên
giường, để cởi giày vớ. Chiếc áo ngủ đã được bà quản gia Annie để sẵn
trên gối! Linh mục tròng áo qua cổ và kéo phủ xuống thân người Meggiẹ
Sau đó, mới cở quần lót cho Meggiẹ Trong thời gian này, cha Ralph kể đủ
thứ chuyện đâu đâu cho cô bé nghe, nào là chuyện tầm phào về những cái
nút khó cởi, những sợi dây giày khó bảo, những dải rubăng tháo mãi không
ra. Đôi mắt cô bé còn đầy nét kinh hoàng thơ ngây không giải thích được,
tất cả rối ren và đau đớn vượt sức chịu đựng của tuổi cô bé. Meggie như
rơi vào khoảng không
- Bây giờ hãy nằm dài ra, con yêu quí của cha và ráng nhắm mắt ngủ. Cha
sẽ trở lại ngay để thăm con. Đừng lo sợ gì. Chúng ta sẽ trở lại tất cả những
chuyện này vào ngày mai.
Pađy hỏi cha Ralph khi linh mục trở lại phòng khách:
- Con bé đã bình yên chưa?
Linh mục đưa tay lấy chai rượu whisky trên tủ và rót nửa ly.
- Thành thật mà nói, tôi chưa biết ra sao. Có Chúa chứng giám, tôi muốn
hiểu sự bất hạnh tệ hại nhất của người Ailen là từ đâu: rượu hay cái tính
hay nổi giận bất thường... Cái gì đã xúi giục ông nói lên điều ấy? Thôi,
giải thích cũng bằng thừa. Cái tính khí bất thường! Tất nhiên là thế. Tôi đã
biết ngay Frank không phải là con của ông khi lần đầu tôi gặp nó.
- Không có gì thoát khỏi cặp mắt của chạ
- Không phải thế. Nhưng chỉ cần có chút óc quan sát trung bình thôi cũng
đủ phát hiện những chuyện buồn phiền hay đau khổ mà một số con chiên
của Chúa phải gánh chịu.
- Phải chăng cha có được nhiều người ở Gilly yêu mến?
- Có lẽ tôi được như thế nhờ ở gương mặt và vóc dáng - linh mục Ralph
trả lời một cách chua chát không thể giữ giọng mình tự nhiên như ý muốn.
- Cha nghĩ như thế à? ý kiến con lại khác, thưa cha. Chúng con yêu mếncha vì cha là một đấng chăn chiên tốt.
Dù sao thì tôi dính líu quá sâu vào những rắc rối của gia đình ông - Cha
Ralph nói hơi lúng túng - ông nên rút ra hết đi những gì đè nặng trong lòng,
ông bạn ạ.
Pađy vẫn nhìn chăm chăm ngọn lửa đang cháy rực. Lúc nãy khi cha Ralph
bế Meggie lên lầu và đặt cô bé lên giường ông đã ném vào lò sưởi thêm
nhiều khúc củi, lòng bị giày xéo bởi sự ăn năn và một đòi hỏi dữ dội muốn
làm một điều gì đó. Cái ly rượu như nhảy múa trên tay ông, bởi ông chưa
qua cơn xúc động và run bật lên từng chặp. Cha Ralph đứng lên, lấy chai
rượu và rót đầy vào ly của Pađy. Sau khi nốc một hơi, Pađy thở dài và lau
những giọt nước mắt trên má lúc nào ông không hay.
- Con không hề biết cha của Frank là ai. Chuyện xảy ra trước khi con gặp
Fiona. Gia đình của vợ con là một gia đình danh giá ở Tây Tây Lan. Cha
của Fiona có một điền trang rộng lớn trồng lúa mì và nuôi cừu, ở gần
Ashburton trên Nam Đảo. Tiền nhiều không kể xiết. Fiona là con gái duy
nhất của ông ấy. Theo như con biết, ông ấy đã lo trước cho Fiona đủ cả,
nào là sang Anh, ra mắt ở triều đình, và lấy một người chồng xứng đáng.
Dĩ nhiên Fiona không động một móng tay vào các công việc trong nhà. Cô
ta có nhiều người phục vụ... Gia đình sống như vua chúa.
Con làm công ở một hãng sữa, đôi khi cũng thấy Fiona từ xa. Cô ấy đi dạo
với một thằng bé khoảng 18 tháng. Rồi một hôm, lão James Armstrong tìm
con. Ông cho con biết là con gái của ông đã làm nhục gia đình, định đưa
cô ấy đi đến một nơi xa thì bà ngoại của Fiona chống lại một cách ồn ào
đến mức gia đình buộc lòng vẫn để Fiona ở đó mặc dù có vẻ bất tiện.
Nhưng sau này bà ngoại sắp qua đời, không còn ai ngăn cản việc đuổi
Fiona và đứa con trai ra khỏi nhà. Con còn độc thân và James bảo con nếu
chịu lấy con gái của ông làm vợ và cam đoan chắc chắn với ông ta là sẽ
đưa con gái đi khỏi Nam Đảo thì ông sẽ chịu mọi tổn phí và biếu thêm một
số tiền là 500 bảng.
Thưa cha, đó là cả một tài sản đối với con, hơn nữa con đã chán cái cảnh
độc thân. Bao giờ con cũng nhút nhát, không làm được chuyện gì nên thân
trong quan hệ với phái nữ. ý kiến ấy rất tốt đối với con và thẳng thắng mànói, đứa bé không gây khó chút nào cho con. Bà ngoại của Fiona cuối cùng
đoán ra được việc này và cho người đi tìm con. Lúc bấy giờ bà đã bệnh
nặng. Bà là một người có uy quyền, tính tình rất khó chịu, nhưng con quả
quyết với cha, đó là một người phụ nữ rất đáng kính trọng. Bà kể cho con
nghe một chút về Fiona, nhưng vẫn không nói ai là cha của thằng bé. Phần
con cũng thấy không cần thiết tìm hiểu xa hơn. Bà buộc con hứa với bà ấy
sẽ đối xử tối với cháu gái của bà... Bà biết rằng Fiona sẽ rời khỏi nhà ngay
khi bà nhắm mắt. Và chính bà đã đưa ra ý kiến với James nên tìm cho
Fiona một người chồng. Con rất tội nghiệp cho bà cụ; bà rất yêu thương
cháu gái của bà.
Cha có tin hay không nếu con kể cho cha biết rằng lần đầu tiên con đến gần
Fiona, ở khoảng cách nghe được tiếng nói của cô ấy, thì đó là ngày cưới?
- Tôi tin ông - cha Ralph nói khẽ - Pađy, thế là ông đã cưới một người vợ
có điều kiện trên ông rất nhiều.
- Vâng. Lúc ấy con rất sợ cô ấy, sợ đến chết được. Cô ta đẹp quá, thưa
cha... Và cũng rất... xa xôi, chắc cha hiểu con muốn nói gì. Tưởng như cô
ta không hiện diện trong nhà mà là một người nào khác ngồi đó.
- Bây giờ bà ấy vẫn còn đẹp, ông Pađy ạ. - Cha Ralph dịu dàng nói. - Tôi
có thể nhìn thấy ở Meggie hình ảnh của Fiona trước kia.
- Cuộc sống dành cho Fiona không phải dễ dàng thưa cha, như cha biết
đấy, không thể nào khác hơn được. Với con, ít nhất cô ấy được an toàn,
không sợ bị đối xử tệ. Phải chờ đến hai năm sau con mới dám... nói thẳng
ra, mới dám trở thành chồng thật sự của cô ấy. Con buộc phải tập cô ấy
làm bếp, quét nhà, giặt và ủi quần áo. Trước kia cô ấy không biết làm gì
hết.
Qua suốt bao năm tháng dài mà chúng con ở với nhau, chưa bao giờ cô ấy
hé môi một lần thở than nhưng đồng thời cô ấy cũng không bao giờ cười
hoặc khóc. Chỉ trong những lúc hết sức riêng tư, trong tình vợ chồng, cô ấy
mới để lộ ra những xúc động của mình, nhưng ngay lúc đó cô ấy cũng
không nói lời nào. Con rất muốn nghe cô ấy tâm tình và đồng thời lại rất sợ
vì con vẫn cảm giác rằng nếu cô ấy tâm tình thì không thể tránh nhắc tớingười ấy. Không! Con không nghĩ rằng cô ấy đối xử không tốt với con và
mấy đứa nhỏ. Con đã dành cho cô ấy tất cả sự trìu mến nhưng hình như tình
yêu đã tắt trong lòng cô ấy tự bao giờ. Ngoại trừ đối với Frank. Con đoán
chắc rằng cô ấy yêu thương Frank hơn tất cả chúng con cộng lại. Có lẽ xưa
kia cô ấy rất yêu cha của Frank. Nhưng con không biết gì về con người ấy,
hắn ta là ai mà tại sao hắn không thể cưới Fiona.
Cha nhìn hai bàn tay mình, rồi nheo mắt.
- Ồ, Pađy, cuộc đời quả là khổ cực làm sao! Nhờ ơn Chúa mà tôi đã không
dám đi gần hơn cái rìa của cuộc sống. Tôi không có can đảm ôm lấy cuộc
sống thật sự trong vòng tay mình.
Pađy đứng lên loạng choạng, hai chân không vững.
- Thế đó, lần này thì con đã làm một điều dại dột. Con đã ép buộc Frank đi
khỏi nhà. Fiona sẽ không bao giờ tha thứ con.
- Ông không nên nói với bà ấy, Pađy à. Không, không nên nói. Cứ giải
thích đơn giản với bà rằng Frank đã đi theo đoàn võ sĩ, thế thôi. Bà ấy dư
biết rằng từ lâu tính tình Frank đã như thế và bà ấy sẽ tin ông.
- Con không thể nói dối như thế, thưa cha! Pađy kêu lên, sững sờ.
- Cần nói như thế, Pađy. Bà ấy đã đau khổ và bị dằn vặt như thế chưa đủ
sao? Đừng gây thêm bất hạnh cho bà ấy nữa.
Trong lòng mình, cha Ralph nghĩ: Biết đâu? - Rất có thể cuối cùng bà ấy
sẽ dồn tình yêu dành cho Frank sang ông và cho con người bé nhỏ đang
nằm trên lầu...
- Cha tin như thế?
- Rất có thể. Nhưng chuyện xảy ra tối nay phải được giữ bí mật giữa hai
chúng tạ
- Nhưng còn... Meggie? Con bé đã nghe hết.
- Ông đừng lo về phần Meggie. Tôi sẽ liệu. Tôi không nghĩ rằng Meggie
hiểu được câu chuyện xảy ra. Nó sẽ nghĩ chỉ là một cuộc cãi vã giữa ông
và Frank. Tôi sẽ tìm cách làm cho Meggie hiểu rằng kể lại cho mẹ nó nghe
chuyện cãi vã giữa cha và anh chỉ làm cho mẹ đau khổ thêm. Hơn nữa theo
tôi nhận xét, Meggie cũng ít khi nói chuyện với mẹ nó (ông đứng lên). Ông
hãy đi ngủ đi Pađy. Nhớ đừng quên giữ cho sắc mặt của mình thật bìnhthường vào sáng mai khi ông trở lại làm việc với nữ hoàng Mary.
Meggie vẫn không ngủ, nằm dài, hai mắt mở to dưới ánh sáng của ngọn đèn
đặt ở đầu giường. Linh mục ngồi ở mép giường và nhận ra rằng tóc của cô
bé vẫn còn thắt bím. Một cách thận trọng, ông tháo chiếc rubăng màu xanh
nước biển và nhẹ nhàng gỡ từng lọn tóc cho đến khi cả mái tóc dợn sóng,
vàng óng ả nằm trải ra gối.
- Anh Frank đã đi rồi, Meggie - ông nói.
- Con biết, thưa cha.
- Con có biết tại sao không, con thân yêu?
- Có chuyện ẩu đả với ba.
- Con tính sao?
- Con sẽ đi theo Frank. Anh ấy cần con.
- Không thể được, Meggie bé nhỏ của cha.
- Được chứ thưa cha. Con muốn đi tìm anh ấy đêm nay, nhưng đôi chân
của con rã rời và con rất sợ bóng đêm. Nhưng sáng mai, con sẽ đi tìm anh
ấy.
- Không nên Meggie ạ. Con phải biết, Frank có cuộc sống của anh ấy, và
đã đến lúc anh ấy phải ra đi. Cha biết là con không muốn cho anh ấy đi,
nhưng đã từ lâu, anh ấy muốn thế. Con không nên ích kỷ. Phải để cho anh
ấy chọn cuộc sống theo ý thích. Khi chúng ta lớn lên, ý muốn được sống ở
ngoài cái gia đình ma ta đã được nuôi nấng là chuyện bình thường và đúng
đắn. Frank đã trưởng thành, con có hiểu những lời cha nói không Meggie?
Đôi mắt cô bé nhìn thẳng vào mặt linh mục. Một đôi mắt mỏi mệt, đau đớn
và không còn chút nào là trẻ con.
- Con biết, cô bé thì thầm. Frank đã muốn đi từ lâu khi con còn nhỏ xíu.
Nhưng rồi anh ấy không đi được. Ba đã bắt anh đem trở về nhà và buộc
anh ấy tiếp tục sống với tụi con.
- Nhưng lần này thì ba con không thể đem anh ấy về nữa, Frank đã đi thật
sự rồi Meggie. Anh ấy sẽ không trở về.
- Con sẽ không bao giờ gặp lại anh ấy nữa sao?
- Cha không biết được - cha Ralph trả lời thành thật - Cha vẫn muốn nói
với con để con yên lòng là anh ấy sẽ trở về, nhưng không ai có thể đoánđược tương lai, Meggie, kể cả các linh mục. Con không nên nói cho mẹ
con biết chuyện cãi vã giữa ba và anh Frank, nghe không Meggie? Điều đó
sẽ làm cho mẹ thêm đau buồn; mẹ con hiện không được khỏe.
- Bởi vì mẹ sắp có em bé?
- Sao con biết.
- Mẹ rất thích làm nở ra các em bé. Và mẹ đã cho nở nhiều em bé rất dễ
thương, thưa cha. Ngay cả khi mẹ không được khỏe. Con sẽ cho nở ra một
em bé như Hal. Như thế con sẽ thấy bớt nhớ Frank hơn.
- Sự sinh sản - cha Ralph nói một mình. Chúc con may mắn, Meggie.
Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con không làm nở ra được một em bé?
- Con vẫn có Hal, giọng nói của Meggie đầy vẻ buồn ngủ, đầu nép vào gối,
cha ơi, còn cha sẽ không đi chứ?
- Một ngày nào đó, rất có thể; nhưng bây giờ thì chưa, Meggie ạ, con đừng
lo nghĩ. Cha có cảm giác là cha sẽ ở Gilly lâu, rất lâu - Cha Ralph trả lời,
hai mắt vương buồn.
__________________
Chương 9
Không thể khác hơn, Meggie phải trở về nhà. Fiona cần sự giúp đỡ của cô
bé. Stuart còn lại một mình ở tu viện Gilly, bắt đầu một cuộc tuyệt thực,
cuối cùng cũng đã trở về nhà.
Khi gặp lại mẹ, cô bé tưởng như bị một sức nặng khủng khiếp đè nặng
người mình; cô có biết đâu đó là dấu hiệu của sự rời bỏ tuổi thơ và là sự
cảm nhận rất sớm thân phận người phụ nữ.
Bề ngoài, Fiona không thay đổi, ngoại trừ cái bụng, nhưng bên trong, tất cả
đều chậm lại như một chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ với cái quả lắc mỗi
lúc một mỏi mệt cho đến khi ngừng hẳn.
Chú bé con tóc màu hung chạy lăng xăng khắp nhà đụng vào bàn ghế,
nhưng Fiona không ép nó vào một khuôn khổ kỷ luật nào. Bà vẫn tiếp tục
công việc như lâu nay - đi lại giữa nhà bếp, nơi giặt quần áo và bồn rửa
chén - như trên đời không còn gì khác hơn để làm.
Không ai nhắc tới tên của Frank nhưng cứ sáu tuần một lần, Fiona ngướcnhìn lên khi nghe tiếng kèn đồng báo hiệu chiếc xe phát thư đến. Bà vui lên
một lúc. Nhưng khi bà Smith đã trao thư từ cho Fiona và không thấy có thư
nào của Frank thì nỗi xót xa lại xâm chiếm lấy bà và tắt lịm đi.
Có thêm hai người mới trong nhà. Fiona cho ra đời một lúc hai đứa con
trai tóc hung. James và Patrick mà trong nhà gọi một cách thân yêu là
Jimes và Patsy.
Bé Hal thì chỉ biết có Meggie, nó không muốn ai khác.
__________________
Chương 10
Cha Ralph quan sát Meggie một cách trìu mến. Cô bé đang chải mái tóc
màu hung và uốn lọn cho Patsy đứng không vững trên hai chân bé nhỏ,
trong khi Jimes đứng kế bên chờ đến phiên mình. Cả hai nhìn chị bằng cái
nhìn đầy thương yêu. Đúng là một bà mẹ tí hon. Tấm lòng ấy phải là một
đức tính bẩm sinh ở Meggie - cha Ralph nghĩ thầm.
Trong một lúc cha Ralph bị thu hút bởi cảnh thân mật dễ thương này. Ông
thả lỏng chiếc roi da xuốn đôi giày bốt đầy bụi, rồi đưa mắt u buồn nhìn
qua hiên, hướng về tòa nhà lớn khuất sau những cây bạch đàn và các thứ
cây leo khác, biệt lập với căn nhà của người quản lý và cuộc sống còn lại
của điền trang.
Giữa cái mạng lưới nhện rộng bao la ấy, con nhện già đang toan tính giăng
ra một kế nào nữa?
- Cha ơi, cha không nhìn đây! Meggie kêu lên trách móc.
- Cha xin lỗi con! Cha đang suy nghĩ.
Ông quay lại nhìn Meggie đúng lúc cô bé vừa chải xong cho Jimes. Cả ba
đang theo dõi ông, chờ cái lúc ông nghiêng mình xuống để bế hai chú bé
con sinh đôi, mỗi đứa một bên hông.
- Chúng ta hãy cùng nhau thăm bà Mary. Ông nói.
Meggie đi theo sau cha Ralph trên con đường dẫn đến ngôi nhà lớn, một
tay cầm cây roi da của linh mục và một tay dắt cương con ngựa cái lông
hai màu. Còn linh mục bế hai đứa bé không có vẻ gì mệt nhọc mặc dù từ
đó đến tòa nhà lớn xa hơn một cây số rưỡi. Vào phía sau nhà bếp, chaRalph lần lượt trao hai đứa bé cho bà Smith đón nhận chúng một cách sung
sướng. Cha đi thẳng ra nhà trước, Meggie theo bên cạnh.
Mary Carson đang ngồi trên chiếc ghế bành đặc biệt cho mình. Lúc này, bà
ít khi rời khỏi ghế, hơn nữa, sự có mặt của bà cũng không còn cần thiết vì
Pađy lo liệu tất cả một cách giỏi giang. Khi cha Ralph bước vào, cầm tay
Meggie, thì cái nhìn đầy ác cảm của bà già buộc ngay cô bé phải nhìn
xuống đất; cha Ralph nghe được tiếng tim đập nhanh của Meggie, càng nắm
chặt cổ tay của cô bé truyền sang nó niềm an ủi và sự âu yếm. Cô bé
nghiêng người xuống chào một cách vụng về, miệng ấp úng mấy câu thưa
gửi.
- Cô bé đi ngay ra phía sau nhà bếp chơi. Cháu uống trà với bà Smith -
Mary Carson ra lệnh một cách lạnh lùng.
- Tại sao bà không thương nó? Cha Ralph vừa hỏi vừa buông mình xuống
chiếc ghế mà ông hiểu rằng Mary Carson dành cho ông.
- Bởi vì cha thương nó - bà trả lời.
- Thôi đi! Cha Ralph phản đối, lần thứ nhất thấy mình ở vào thế yếu - Con
bé chỉ là đứa trẻ cô độc, bà Mary ạ.
- Nhưng cha đã không nhìn nó dước góc cạnh đó, chính cha cũng biết điều
ấy
Cặp mắt xanh đẹp nhìn bà một cách mỉa mai; ông cảm thấy thoải mái hơn.
- Bà nghĩ rằng tôi có những quan hệ tội lỗi với trẻ con? Dù sao tôi cũng là
linh mục.
- Trước hết cha là một người đàn ông, Ralph de Bricassart! Làm linh mục
- điều đó chỉ mang đến cho cha một cảm giác an toàn, có thế thôi.
Bất ngờ và bối rối, cha Ralph cười. Không hiểu vì sao, ông cảm thấy thấy
mình bất lực, không có khả năng so gươm với bà ngay hôm đó; hình như bà
đã khám phá ra chỗ nhược của chiếc áo giáp và bà đã khoan vào đấy bằng
nọc độc của con nhện. Có lẽ ông đã thay đổi nhiều, đã già đi, chấp nhận
thích nghi với cuộc sống lu mờ ở Gillabone. Ngọn lửa tắt dần trong lòng
ông hay là nó dã cháy lên với một niềm say mê khác?
- Tôi không phải là một người đàn ông - ông vặn lại - Tôi là linh mục...
- Ồ, Ralph, cha đã thay đổi nhiều quá - bà chế giễu - Phải chăng tôi đangnghe chính đức Hồng Y De Bricassart nói?
- Không hề có chuyện đó, ông nói, cái nhìn có một thoáng tuyệt vọng che
khuất. Tôi không nghĩ rằng tôi còn muốn tiến lên trên những tầng cao ấy.
Bà Mary cười lớn, người nghiêng ra trước rồi ngả ra sau trên chiếc ghế
bành, nhưng không một giây lơi quan sát cha Ralph.
- Có thật thế không Ralph? Cha không còn muốn nữa? Thế thì, tôi sẽ để
cho cha mốc meo ở đây thêm một thời gian, nhưng rồi cái ngày đền tội của
cha sẽ đến, không thể nghi ngờ. Tôi là hiện thân Quỷ Xa tăng đối với cha
và tôi sẽ hiến dâng cho cha... Thôi, tôi đã nói đủ rồi! Nhưng đừng có nghi
ngờ, tôi sẽ bắt cha chịu sự nhục hình. Cha là người đàn ông hấp dẫn nhất
mà tôi gặp. Cha ném cái đẹp của cha lên đầu chúng tôi, đồng thời lại khinh
miệt những sự yếu đuối của chúng tôi. Nhưng tôi nhất định sẽ ghim cha lên
tường và bằng cách khai thác chính những chỗ yếu của cha, tôi sẽ buộc cha
tự bán mình như một con điếm son phấn lòe loẹt. Cha có tin như thế
không?
Ông bật ngửa ra sau, cười.
- Tôi không nghi ngờ là bà sẽ thử làm việc ấy nhưng tôi không tin bà hiểu
tôi như bà tưởng.
- Không hẳn. Thời gian sẽ trả lời cha, Ralph, chỉ có thời gian thôi. Tôi đã
già, với tôi không còn gì khác hơn là sự chờ đợi.
- Thế thì bà nghĩ tôi có cái gì khác hơn à? - ông hỏi lại. Cũng là thời gian
mà thôi, bà Mary, chỉ có thời gian. Thời gian, cát bụi và muỗi mòng.
Một hôm, bé Hal ho; hơi thở khó, mệt nhọc từng lúc và sức khỏe xuống rất
nhanh. Pađy lên nhà lớn gọi điện thoại nhưng bác sĩ lại ở cách đây hơn 60
cây số và ông ta đang đi thăm một bệnh nhân khác.
Meggie không tin Hal sẽ chết, ngay cả khi Fiona và Pađy quỳ bên giường,
tuyệt vọng, đọc kinh cầu nguyện cho Hal. Nửa đêm, Pađy gỡ hai tay của
Meggie đang ôm Hal rồi bế thân xác nhỏ bé cứng đơ của Hal đặt nhẹ
nhàng lên giường.
Bấy giờ, Meggie choàng mở mắt. Cô bé đã thiếp đi lúc Hal không còn giãy
giụa nữa.
- Ba ơi, Hal có đỡ không ba?Pađy lắc đầu.
- Không, Meggie ạ. Hal không đỡ chút nào như con mong, em đã yên nghỉ
rồi. Hal đã trở về với Chúa, thế là không còn đau khổ nữa.
- Không, ba ơi, em không chết. Không thể thế được.
... Meggie ngồi trên ghế hai tay đặt lên đầu gối. Hal thuộc về cô bé nhưng
Hal đã chết. Chú Hal mà Meggie đã thương yêu, săn sóc, dỗ ngủ nay đã
không còn.
Cha Ralph đã bắt gặp Meggie như thế khi bước vào nhà cùng với một bác
sĩ đi theo. Sau đó không lâu thì bác sĩ đi ra. Ông không thể làm gì khác hơn
vì ở cách quá xa bệnh viện, phương tiện y tế lại thiếu.
Sau đó, nhiệm vụ của cha Ralph cũng xong. Pađy tìm Fiona, còn Bob và
các anh trai của Meggie thì xuống xưởng mộc để đóng cái hòm.
Quên rằng mình đang choàng chiếc khăn lễ màu tía trên cổ, cha Ralph cúi
xuống thổi bếp bùng lên. Ông vặn thấp ngọn đèn đặt trên bàn phía sau rồi
ngồi trên chiếc ghế dài đặt trước mặt Meggie để có thể quan sát cô bé rõ
hơn. Meggie đã lớn; cô bé đã mang hia bảy dặm, có khả năng bỏ lại cha
Ralph đằng sau. Ông cảm thấy mình ngày càng rối loạn lên dữ dội khi nhìn
lại cả chiều dài của một cuộc đời đầy rẫy những hoài nghi và ám ảnh.
Nhưng ông sợ cái gì? Cái gì đã làm cho ông nghĩ rằng nếu nó xuất hiện thì
ông không thể đối đầu? Ông có thể vững vàng với những người khác; ông
không sợ; nhưng nơi ông, sự chờ đợi cái điều không thể giải thích ấy đang
len vào trong ý thức của ông, giữa lúc mà ông ít chờ đợi nhất thì ông biết
sợ. Trong khi ấy Meggie, sinh ra sau ông 18 năm, đang lớn lên, bước trước
ông rất xa.
Meggie không phải là một nữ thánh, càng không phải là một cô bé gái như
mọi cô bé gái khác. Meggie không bao giờ than vãn, lại có cái đức tính
bẩm sinh - hay đó là một bất hạnh - là sự chịu đựng. Trước bất cứ chuyện
gì hoặc xắp xảy ra cô bé đều đối đầu và chấp nhận hết để đốt cháy thêm
ngọn lửa trong lòng. Hay là ý tưởng mà ông đã có về Meggie chỉ là tấm
gương phản chiếu những ảo tưởng của chính ông.
- Ồ, Meggie - ông thì thầm với một tiếng thở dài bất lực.Meggie quay lại nhìn cha Ralph đột ngột và từ niềm đau khổ tột cùng cô bé
mỉm cười như gửi đến cha Ralph một nụ hôn yêu thương tuyệt đối, tràn trề,
không ẩn giấu bất cứ điều gì; những điều cấm kỵ và ức chế của một người
phụ nữ chưa có thế giới riêng tư, còn ngây thơ của Meggie.
Được yêu như thế làm cho cha Ralph bàng hoàng, như bị thiêu đốt; ông đã
phải xin Thượng đế - dù cho trước đây lắm lúc ông đã nghi ngờ sự hiện
hữu - hãy biến ông thành bất cứ một con người èao khác trong cuộc đời
này, miễn là không phải Ralph de Bricassart. Có phải chăng chính đó la
điều không thể giải thích trong ông? Thượng đế ơi, tại sao tôi lại yêu
thương cô bé đến thế? Nhưng cũng như mọi khi, không có ai trả lời cho
ông. Ngồi im trước mặt, Meggie vẫn tiếp tục mỉm cười với ông...
Cuộc sống tiếp diễn theo cái vòng tuần hoàn vĩnh cửu, đều đặn của trái đất,
mùa hè kế tiếp mang những cơn mưa đến làm đầy con suối và các bồn
chứa, tưới mát những rễ cây khát nước, giữ chặt trên mặt đất những cơn bụi
điên cuồng. Bọn đàn ông mừng rỡ muốn khóc khi làm những công việc mùa
vụ, yên tâm không phải mất công chở cỏ khô để nuôi cừu.
Drogheda biệt lập với thế giới còn lại, chỉ có đọc sách là cách tiếp xúc
duy nhất với bên ngoài. Nhưng không như Wahine có thư viện lưu động, ở
đây chỉ trông cậy vào Ralph. ông cung cấp cho các gia đình ham đọc ở
Drogheda những quyển sách lấy từ tủ sách của chính ông và của tu viện.
Vào thời đó, cuốn sách ướt át nhất cũng chỉ dám tả một nụ hôn trong sáng,
chứ không đi xa hơn.
Trong sự biệt lập ấy, Meggie hoàn toàn không hiểu được cả cái ý nghĩa
của khái niệm những thực tế của cuộc sống vì rằng điều kiện thực tế đã
ngăn chặn mọi ngả đường khám phá. Cha của cô dựng lên một rào chắn
kiên cố giữa đàn ông phụ nữ trong gia đình; các đề tài như gây giống hay
giao phối của súc vật không bao giờ được đề cập trước mặt Meggie và
đàn ông không bao giờ xuất hiện trước mặt cô bé mà không ăn mặc đàng
hoàng. Loại sách có khả năng soi sáng một chút gì đó cũng không tới
Drogheda. Meggie không có bạn gái cùng lứa tuổi để tăng thêm sự hiểu
biết. Cuộc sống của cô bé chỉ quanh quẩn vào những công việc trong nhà
và những vùng lân cận, hoàn toàn không có một hoạt động nào dính dấpđến giới tính. Các sinh vật ở vùng đất này đều không sinh đẻ. Mary Carson
không gây giống ngựa; bà mua ngựa của Martin Jang ở Bugela. Ở trang trại
có một con bò rừng, con vật hung dữ không cho mọi người léo hánh tới.
Mấy con chó thì bị cột trong chuồng; lấy giống được coi như một công
việc khoa học và diễn ra dưới mắt lành nghề của Pađy và Bob. Thời giờ
không phải để chăm sóc mấy con heo, vả lại Meggie cũng rất ghê tởm
chúng dù phải nuôi. Nói cho đúng là Meggie không có thời giờ cần thiết để
nghĩ đến bất cứ chuyện gì ngoài hai đứa em trai. Sự dốt nát này kéo theo
sự dốt nát khác; một cơ thể và một bộ óc không được kéo ra khỏi cơn ngủ
thì cứ tiếp tục ngủ, mặc các sự kiện mà con người vừa mở mắt đã ghi nhận
được tất cả.
Vài hôm trước sinh nhật lần thứ 15 của Meggie, giữa cái nóng oi bức của
mùa hè lên đến gần cực điểm, Meggie bỗng chú ý thấy những vết nâu nâu
từng vệt dính trong quần lót . Sau đó một hai hôm không thấy gì nữa
nhưng sáu tuần sau, các vết ấy lại xuất hiện trở lại. Sự mắc cỡ ở Meggie
biến thành sợ hãi. Lần đầu, cô nghĩ là do mình giặt quần áo không sạch,
thật là nhục; nhưng qua lần xuất hiện thứ nhì, sự hoài nghi không cho phép
nữa, chắc chắn không thể chối cãi đây là máu . Meggie không có một
chút khái niệm gì về nguyên nhân sự chảy máu ấy nhưng cô tưởng tượng là
nó chảy ra ở phía sau. Sự chảy máu rỉ rả ấy biến đi sau ba ngày và không
trở lại trước hai tháng sau; Meggie lén lút giặt quần lót, không ai hay biết
vì ngày thường cũng chính Meggie đảm trách phần giặt giũ quần áo cho
mọi người trong nhà.
Hiện tượng chảy máu lần kế tiếp kèm theo sự đau đớn, sự đau đớn nhiều
nhất từ trước tới này, hơn cả những cơn đau dạ dày. Và lần này, máu chảy
cũng nhiều, thật nhiều. Cô ăn cắp vài miếng tã lót cũ của hai em trai sinh
đôi và đặt ở trong quần lót, với nỗi lo sợ kinh khủng máu có thể chảy ra tới
bên ngoài.
Cái chết đã mang Hal đi được Meggie hiểu như sự xuất hiện của một hiện
tượng siêu tự nhiên, nhưng còn cái gì đó đang chảy âm ỉ từ trong người của
Meggie thì lại gây cho cô một nỗi kinh hoàng. Bằng mọi cách Meggie phải
đi tìm mẹ hoặc cha để thông báo rằng mình sắp sửa chết do một bệnh tậtnhục nhã, khó nói cho ai biết. Chỉ duy nhất với Frank, cô mới có thể thổ lộ
nỗi lo âu của mình, nhưng giờ đây anh ấy đang ở quá xa và không biết cách
nào mà tìm. Meggie có nghe những người phụ nữ lớn tuổi giữa lúc uống trà
đã nói với nhau về những khối u và ung thư, về những cái chết khủng khiếp
của những người bạn và những người bà con sau những tháng dài đau đớn.
Và Meggie tin rằng một hiện tượng tương tự cũng đang ngốn bên trong cơ
thể âm ỉ, tiến sâu vào trái tim hoảng hốt của Meggie. Ôi, cô bé không muốn
chết chút nào!
Những hiểu biết tương đối về cái chết lại rất mơ hồ đối với Meggie nhưng
cô rất sợ hãi và không bao giờ muốn chết. Meggie không thể tưởng tượng
được mình sẽ ra sao trong cái thế giới bên kia. Với Meggie, tôn giáo chẳng
khác gì một loạt luật lệ hơn là cuộc sống tinh thần, do đó tôn giáo không
giúp gì được cho cô cả.
Sự lặng lẽ xâm chiếm Meggie, sự yên tĩnh ấy không thể so sánh với nỗi cô
độc êm đềm và mơ mộng của Stuart. Ở Meggie sự lặng lẽ đó có cả chút sợ
hãi sửng sốt của một con thú bị rắn thôi miên. Khi có ai hỏi đột ngột,
Meggie giật nẩy người, nếu các đứa em trai gọi Meggie bằng cách hét to
lên, Meggie sẽ chạy hốt hoảng và tự trách mình sao sơ sót. Và cứ mỗi khi
lợi dụng được giây phút hiếm hoi ngơi nghỉ, Meggie liền chạy nhanh ra
nghĩa trang để tìm lại Hal, cái chết duy nhất mà cô được biết.
Mọi người đều nhận ra sự thay đổi ở Meggie nhưng đều coi đó là một hiện
tượng phát triển bình thường của lứa tuổi. Cô bé giấu kín một cách tài tình
nỗi cô đơn tuyệt vọng. Không ai có thể hiểu những gì xảy ra bên trong
Meggie. Không có một biểu lộ nào, và sự kín đáo đó được giữ cho tới
cùng. Từ Fiona đến Stuart, qua Frank, không biết bao nhiêu điều đã xảy ra.
Thế mà, trong những chuyến thăm Drogheda thường xuyên, cha Ralph đã
nhận ra sự thay đổi ở Meggie; sự thay đổi ấy trùng hợp với diễn biến rất
dễ thương ở người phụ nữ; nó làm giảm đi các hoạt động vì lo lắng rồi âu
sầu. Một sự sa sút về thể xác lẫn tinh thần đập vào mắt cha Ralph. Meggie
lẩn tránh mọi người. Cha Ralph không muốn thấy Meggie biến thành một
Fiona thứ hai. Gương mặt nhỏ bé thu lại chỉ còn thấy rõ đôi mắt, đôi mắtmở to như hướng về một viễn ảnh khủng khiếp nào. Da màu sữa, trước đây
đầy đặn, không hề bị rám nắng, cũng không có vết tàn nhang, đang càng lúc
càng tăng lên. Nếu cái đà này cứ tiếp tục, cha Ralph nghĩ thầm, một ngày
nào đó Meggie sẽ tự đâm mình, vất vưởng trong tia sáng hiu hắt màu nâu,
lờ đờ, rất khó nhận ra bằng mắt, giữa những chiếc bóng đan lên nhau và
những vệt đen đang lan dần lên bức tường trắng.
Thế là cha Ralph quyết khám phá điều ấy ở Meggie, dù phải dùng biện
pháp mạnh. Vào lúc đó, Mary Carson tỏ ra khó chịu và ghen tuông từng lúc
mỗi khi cha Ralph ở lại tại nhà Pađy.
Một hôm, ông thoát ra được sự kềm kẹp của Mary Carson và săn tìm cho
được Meggie, cuối cùng gặp cô trong nghĩa trang nhỏ, núp nắng dưới một
bức tượng thánh - Meggie đang nhìn nét mặt nhợt nhạt của bức tượng, trong
khi đó chính gương mặt của cô biểu lộ nét sợ hãi, một sự tương phản giữa
xúc cảm và vô cảm trơ trơ - cha Ralph nghĩ thầm như thế. Nhưng mình ở
đây làm gì, chạy theo đuôi cô ta như một con gà mẹ già nua, trong khi
Fiona hoặc Pađy có trách nhiệm tìm hiểu những nguyên nhân âu lo của con
gái.
Nhưng cha mẹ của Meggie đã không nhận thấy gì bởi họ ít quan tâm đến
con gái, trong khi cha Ralph lại dành cho Meggie thật nhiều thứ. Hơn thế,
với cương vị một linh mục, cha Ralph còn có trách nhiệm an ủi những tâm
hồn đau khổ cô đơn và tuyệt vọng. Ông không thể chịu đựng nổi khi thấy
Meggie đau khổ, nhưng tai hại là ông đã ngày càng gắn bó với Meggie qua
một loạt sự kiện rắc rối chồng lên nhau. Với Meggie, ông đã hằn sâu biết
bao sự việc và kỷ niệm, do đó ông cảm thấy sợ. Tình thương của ông dành
cho Meggie và bản chất linh mục của ông, thúc đẩy ông phải sẵn sàng
mang lại mọi sự giúp đỡ về mặt tinh thần mà đúng ra mọi người đều có
quyền chờ đợi ở ông. Ông phải tự chiến đấu để thấy rõ hơn là mình có
trách nhiệm với Meggie cũng như với bất cứ ai khác.
Nghe tiếng chân đi trên cỏ, Meggie quay lại, hai tay đặt chéo trên đùi, mắt
nhìn xuống. Cha Ralph đến ngồi bên cạnh cô, tay bó gối. Chiếc áo choàng
không được kín đáo làm tăng vẻ đẹp cái thân thể bên trong của cha. Thối
thoát vô ích, ông nghĩ thầm. Nếu muốn, Meggie có thể tránh né ông.- Có chuyện gì xảy ra hở Meggie?
- Không có chi thưa cha.
- Cha không tin lời con.
- Con xin van cha, con xin van cha ma! Con không thể nói với cha chuyện
này được.
- Ồ, Meggie thương yêu! Cô gái thiếu đức tin! Con có thể nói với cha tất
cả. Chính vì thế mà cha có mặt tại đây. Chính vì thế mà cha là linh mục.
Cha là người đại diện đã được Chúa lựa chọn trên trần gian. Cha nhân
danh Chúa mà nghe con nói, nhân danh Người ta có quyền tha thứ cho con.
Nghe đây Meggie bé nhỏ của ta, không có điều gì ở trên trần thế này mà
Chúa và ta không thể tha thứ. Con phải nói cho ta biết điều gì làm con băn
khoăn, con thương yêu. Ngày nào ta còn trên đời này, ta sẽ luôn tìm cách
giúp đỡ con, che chở con. Nếu con muốn thì cha sẽ như một thiên thần hộ
mệnh, chắc chắn đáng tin cậy hơn so với bức tượng đá cẩm thạch mà con
nhìn thấy. Nếu con thương yêu ta, hãy nói cho ta biết làm gì làm con lo
lắng.
- Thưa cha, con sắp chết, cô gái vừa nói vừa vặn hai tay - con bị ung thư.
Suýt nữa ông cười to lên vì gánh nặng trong lòng bỗng chốc trút bỏ hết;
nhưng liền đó nhìn kỹ làn da mịn, hơi xanh, hai cánh tay nhỏ gầy của
Meggie, trong lòng ông nổi lên một thèm muốn ghê gớm được khóc và hét
to lên, oán giận cả trời đất trước một bất công như thế. Không, Meggie
không tự mình tưởng tượng ra chuyện khủng khiếp ấy mà không dựa vào
một nguyên nhân nào đó, có thể có một lý do.
- Điều gì khiến cho con tin như thế, quả tim bé nhỏ của cha?
Phải một lúc khá lâu, cô mới kể lại và khi ấy, cha Ralph phải nghiêng đầu
về phía gần môi Meggiẹ ông lặp lại một cách máy móc tư thế của một linh
mục trước một con chiên đang xưng tội: lấy tay che mặt để mắt cô gái
không trông thấy mình, còn tai sẵn sàng nghe những lời xưng tội.
- Cách đây sáu tháng thưa cha, chuyện ấy bắt đầu xảy ra. Con bị đau bụng
dữ dội, nhưng không phải đau bụng như khi ăn không tiêu đâu... Rồi... Cha
ơi... rất nhiều máu chảy ra.
Cha Ralph ngửa đầu ra sau, cử chỉ mà không bao giờ có trong những lúcnghe xưng tội; ông nhìn đầu Meggie cúi xuống vì xấu hổ. Biết bao xúc
động dấy lên khiến cho ông không thể lấy lại sự bình tĩnh. Vô lý thật. Sự
nhẹ nhõm hết sức dễ chịu rồi sau đó ông lại giận Fiona, mẹ của Meggie,
ông thán phục với sự kinh ngạc khi nghĩ đến cô gái bé bỏng ấy sao lại có
thể chịu đựng một cực hình dai dẳng, một sự khó chịu như thế mà không
hình dung được là cái gì.
Ông đã từng nghe những chuyện tương tự như chuyện Meggie kể trong suộc
cuộc đời linh mục. Mỗi thành phố cha từng ở lại từ Dublin đến Gillabone,
đều có những cô gái hư hỏng len vào phòng xưng tội kể lể những chuyện
bịa đặt cứ như là thật với mục đích duy nhất là khơi dậy cái điều mà họ tò
mò nhất ở một linh mục: đó là tính sung mãn của người đàn ông. Tất cả
đám con gái đó không chịu nhìn nhận rằng họ hoàn toàn thất bại trong toan
tính này. Họ thì thầm kể lại nào là họ đã bị hãm hiếp như thế nào, gợi lên
những trò cấm kỵ giữa họ với những đứa con gái khác, những chuyện dâm
đãng và ngoại tình; một vài cô trong bọn, óc tưởng tượng phong phú hơn,
đến mức kể tỉ mỉ những chi tiết làm tình với một linh mục. Thế mà cha
Ralph vẫn nghe, hoàn toàn không xao xuyến mà chỉ thấy kinh tởm và xót xa
cho họ. Cha đã trải qua cuộc sống khắc khổ ở tu viện.
Hơn thế nữa với một con người thuộc tầm cỡ ông, bài học ấy ông tiêu hóa
không khó khăn lắm. Nhưng trong tất cả các trường hợp đã qua, chưa bao
giờ các cô gái lại nói về những chỗ yếu của thân xác, làm hạ phẩm giá của
họ.
Dù hết sức cố gắng nhưng cha Ralph không thể ngăn chặn máu trong người
nóng lên. Mặt ửng đỏ; cha Ralph quay đầu đi và úp mặt trong tay, chống
chỏi lại sự hổ thẹn lần đầu làm đỏ mặt ông.
Nhưng tất cả những chuyện ấy không giúp gì cho cô gái bé Meggie. Khi
biết chắc rằng sắc mặt của mình đã trở lại bình thường, cha Ralph đứng
dậy, nâng Meggie lên và đặt cô gái ngồi trên bệ đá cẩm thạch để cho mặt
của Meggie cao ngang với ông.
- Meggie hãy nhìn cha. Đừng làm thế, hãy nhìn thẳng cha.Meggie ngước lên với đôi mắt của con thú bị săn đuổi và thấy linh mục
mỉm cười; tâm hồn cô cảm thấy nhẹ nhàng một niềm an ủi vô hạn. Cha sẽ
không mỉm cười như thế nếu cô sắp chết. Meggie biết rất rõ cha Ralph
chẳng bao giờ giấu diếm tình cảm của ông.
- Meggie, con không biết đâu và con cũng không bị ung thư. Đúng ra ở
cương vị này cha không thể giải thích chuyện gì đã xảy ra nhưng cha nghĩ
rằng cha phải làm thôi. Đáng lý mẹ con hải nói cho con biết từ lâu, chuẩn
bị cho con sẵn sàng đón nhận hiện tượng ấy. Cha không thể nào hiểu được
tại sao mẹ con không làm như vậy.
Cha Ralph liếc nhìn bức tượng thánh bằng cẩm thạch đứng sững trên cao,
rồi cười như tắt nghẹn.
- Lạy Chúa! Chúa giao cho con một nhiệm vụ không dễ dàng. Này Meggie
thân yêu, với năm tháng, khi con lớn lên, rồi già đi và khi con biết được
nhiều hơn về những thực tế của cuộc sống, con sẽ nhớ lại cái ngày này mà
không khỏi khó chịu, hổ thẹn nữa là khác. Nhưng đừng giữ kỷ niệm này làm
gì, Meggie ạ. Tất cả chuyện này chẳng có gì lạ xấu hổ và chẳng có gì
ngượng ngập cả. Lúc này, cũng như mọi khi, cha chỉ là công cụ ở trần thế,
cha không có quyền nghĩ đến nhiệm vụ nào khác. Con đã quá sợ hãi, con
cần sự giúp đỡ, và Đức Chúa Trời đã ban cho con sự giúp đó qua đại diện
của Người là ta. Con nên nhớ điều ấy, Meggie ạ. Cha là tôi tớ của Chúa và
những gì cha nói đều nhân danh Chúa. Chuyện xảy ra với con là chuyện đã
xảy ra với tất cả mọi phụ nữ, Meggie, mỗi tháng một lần và kéo dài trong
nhiều ngày, con sẽ thấy ra máu. Thường chuyện đó xuất hiện ở tuổi 12,
13... Con đã mấy tuổi?
- Thưa con mười lăm!
- Mười lăm à? Con đã mười lăm? - Cha Ralph lắc đầu không tin - Nhưng
thôi, con đã nói với cha thì cha không nghi ngờ gì. Với cái tuổi mười lăm
chuyện ấy xảy ra như thế là trễ. Hiện tượng này sẽ diễn ra mỗi tháng cho
đến khi con trên 50 tuổi. Với một số người nó xuất hiện đều đặn theo chu
kỳ tuần trăng, với một số khác có thể không đều đặn. Với người này không
bị đau đớn, với người khác thì ngược lại. Người ta không biết được tại sao
sự khác nhau ấy. Nhưng đó là dấu hiệu trưởng thành của con. Con có hiểutrưởng thành là gì không?
- Con biết chứ, thưa cha. Con đọc sách! Trưởng thành có nghĩa là con đã
lớn.
- Tốt. Giải thích như thế cũng khá đủ. Khi nào con ra máu là người phụ nữ
còn có thể có con. Đó là sự kế tục nòi giống. Vào thời kỳ trước khi xảy ra
tội tổ tông, hình như Eva không có kinh nguyệt. Kinh nguyệt là tên gọi hiện
tượng đã xảy đến với con, Meggie. Nhưng khi Adam và Eva phạm tội,
Chúa Trời đã trừng phạt người phụ nữ nặng hơn vì rằng trong sự sa ngã ấy,
người phụ nữ có tội nhiều hơn, chính họ đã cám dỗ người đàn ông. Con có
nhớ những lời giảng trong kinh thánh không? Người sẽ sinh đẻ trong đau
đớn, có nghĩa là Chúa muốn rằng đối với người phụ nữ, tất cả những gì
liên quan đến việc sinh đẻ đều là nguồn gốc của mọi tội lỗi. Đó là những
niềm vui sướng thật lớn lao nhưng đồng thời cũng là những đau đớn tận
cùng. Đó là phần số của con người, Meggie ạ, con phải cam chịu như vậy.
Meggie không biết rằng cha Ralph cũng sẵn sàng mang lại sự an ủi và giúp
đỡ y như thế với bất cứ một nữ giáo dân nào, mặc dù có khi cha không
thiết tha đến số phận của họ như đối với số phận của Meggie. Cha là hiện
thân của lòng tốt, nhưng không bao giờ cha lại để bị lôi cuốn vào những
nỗi lo âu. Sự an ủi và giúp đỡ riêng càng có ích gấp bội đối với người đón
nhận. Cha Ralph vượt lên trên những điều tầm thường. Bất cứ ai cần sự
giúp đỡ của cha đều không cảm thấy bị ghét bỏ hay chê trách. Nhiều linh
mục đã khiến cho con chiên mang mặc cảm tội lỗi, xấu xa, đê tiện khi ra
về. Còn cha Ralph thì không. Cha Ralph làm cho họ hiểu rằng, chính bản
thân ông, cũng có những niềm đau và những cuộc đấu tranh. Niềm đau thì
xa lạ còn cuộc đấu tranh có thể không thấy rõ hết nhưng không vì hiểu điều
này, rằng phần lớn sức quyến rũ và sức hấp dẫn của ông không do con
người xác thịt của ông tạo nên, mà do chính sự xa cách gần như thần thánh,
do một phần nhỏ rất con người thấm sâu vào tâm hồn ông.
Với Meggie, ông nói chuyện như Frank đã nói chuyện với em gái, ngang
hàng nhau. Nhưng ông lớn tuổi hơn, sáng suốt hơn và hiểu biết hơn Frank
nhiều, do đó ông là người mà Meggie có thể tâm tình thoải mái hơn. Giọng
nói của cha Ralph thanh thoát mang âm điệu nhẹ nhàng của người Ailen, cókhả năng làm lắng xuống mọi sợ hãi và âu lo. Meggie còn trẻ, lúc nào cũng
tò mò, khao khát được hiểu tất cả những gì cần thiết; đầu óc chưa bao giờ
bị rối loạn bởi những triết lý vốn thường gây hoang mang. Cha Ralph là
người bạn của cô, là thần tượng yêu thương của lòng cô, một mặt trời mới
trong bầu trời riêng của cô.
- Meggie, bây giờ con phải trở về nhà và nói cho mẹ con biết là con bị ra
máu. Mẹ con sẽ chỉ cách làm thế nào để giữ cho con được sạch.
- Mẹ con cũng bị như thế chứ?
- Tất cả phụ nữ khỏe mạnh đều bị như thế. Nhưng khi mang thai, sẽ ngưng
lại cho đến ngày sinh em bé. Chính khi tắt kinh, người phụ nữ biết rằng
mình đang mang trong người một mầm sống mới.
- Tại sao máu ngưng chảy ra khi người phụ nữ chờ đợi sinh con?
- Cha không biết, thật sự không biết. Xin lỗi con, Meggie.
- Tại sao máu lại chảy ở phía sau?
Cha Ralph hướng mắt giận dữ về phía tượng thánh đang bình thản ngắm
nhìn ông, bất động trước những buồn phiền mà những người phụ nữ gặp
phải. Mọi việc trở nên quá hóc búa đối với cha Ralph. Ông không ngờ
Meggie lại đặt các câu hỏi xa vời mà bình thường cô hay bỏ lửng nửa
chừng, điều ấy khiến cho cha kinh ngạc! Nhưng ông ý thức rằng từ nay ông
sẽ là nguồn cung cấp hiểu biết cho Meggie, ông cố tránh bằng mọi giá
không để cô phát hiện sự bối rối và khó chịu của mình. Rất có khả năng, cô
sẽ thu mình lại và không thèm đặt câu hỏi với ông nữa.
- Máu không chảy ra từ phía sau của con, Meggie - ông trả lời, với tất cả
sự kiên nhẫn. Nó chảy ra từ một nơi ẩn giấu, phía trước thân thể con, cái
nơi dính dáng mật thiết với chuyện có con.
- Ồ, có phải ý cha muốn nói máu chảy ra từ chỗ ấy? Meggie reo lên. Nhiều
lần con đã tự hỏi các em bé ra đời như thế nào?
ông mỉm cười, nhấc bổng Meggie lên khỏi bệ đá.
- Bây giờ thì Meggie đã biết tất cả rồi. Con có biết ai tạo ra những đứa
con không, Meggie?
- Ồ, biết chứ! - Meggie ưỡn ngực ra, vui sướng vì đã hiểu biết chút ít -
Người ta làm cho các em bé mọc ra.- Và con có biết chúng bắt đầu mọc ra như thế nào không?
- Khi người ta muốn có các em bé một cách mãnh liệt.
- Ai nói cho con nghe điều ấy?
- Không ai cả. Con tự hiểu như thế.
Cha Ralph nhắm mắt lại và thầm nghĩ không ai có thể kết tội ông hèn nhát
vì đã bỏ lửng chuyện ấy ở đó. Dù cho ông có thương hại cô gái bé nhỏ,
ông vẫn không thể giúp đỡ cô ta xa hơn. Thử thách mà ông trải qua như thế
quá đủ rồi.
__________________
Chương 11
Mary Carson sắp 72 tuổi, bà chuẩn bị chu đáo cho buổi tiếp tân lớn, chưa
từng có ở Drogheda trong 50 năm qua. Ngày kỷ niệm sinh nhật của bà đúng
vào thượng tuần tháng 11, bấy giờ trời vẫn còn nóng dữ dội, nhất là đối
với người dân ở Gilly.
- Bà Smith hãy nhớ nhé điều tôi đã nói với bà. Minnie thì thầm. Đừng quên
nhé! Bà ta sinh ngày 3 tháng 11
- Nhưng mày muốn nói gì nữa, Minnie? Bà quản gia hỏi.
Thái độ bí hiểm theo kiểu người Scotland của Minnie gây bực bội cho bà
già người Anh.
- Sao, bà không hiểu à? Điều đó chứng tỏ ngày sinh của bà ta là con bọ
cạp. Một con bọ cạp... Bà có thấy đúng thế không?
Trên chiếc ghế bành, con nhện cái già ở trung tâm mạng lưới, phát ra một
loạt mệnh lệnh; phải làm thế này, phải làm thế kia, đem cái này ra, dời cái
kia đi chỗ khác. Hai cô gái hầu phòng đang đánh bóng những đồ bằng bạc
và rửa bộ chén đĩa bằng sứ Haviland, biến nhà nguyện nhỏ trong nhà thành
nơi chiêu đãi và xếp những bàn dài đầy bánh rượu ở mấy phòng bên cạnh.
Dàn nhạc Clarence O'' Toole sẽ từ Sydney đến cùng một lúc với các món
hải sản quí. Cả một vùng rộng lớn, từ Rudna Hunish đến Inishmurray và
Bugela đến Narrengang rộn ràng chuẩn bị tham dự buổi lễ này.
Giữa lúc nền đá cẩm thạch của đại sảnh vang lên những tiếng bàn ghế xê
dịch, những tiếng gọi nhau ơi ới của những người khuân vác đang bày việnphòng tiếp tân thì Mary Carson rời khỏi chiếc ghế bành, đến ngồi sau bàn
viết. Bà lấy ra một tờ giấy mịn, chấm bút vào bình mực rồi bắt đầu. Bà
viết liên tục không do dự, ngay cả khi chấm phẩy. Năm năm gần đây, bà đã
suy nghĩ một cách chi li nội dung từng câu phức tạp, sắp xếp thật chỉnh để
từng chữ được sử dụng đúng, chính xác. Viết thì chẳng mất bao nhiêu. Bà
Carson viết đầy hai tờ giấy, trong đó một tờ chỉ hai phần ba. Khi viết xong
dòng cuối cùng, bà ngồi yên một lúc. Bàn viết đặt bên cạnh cửa sổ lớn, chỉ
cần quay đầu là đã nhìn thấy thảm cỏ trước nhà. Tiếng cười từ ngoài vọng
vào làm bà chú ý, lúc đầu bà chẳng nghĩ gì nhưng sau đó lại khơi dậy trong
bà sự bực bội tức tối ngấm ngầm. Cầu Chúa hãy đầy hắn xuống địa ngục,
hắn và con người ám ảnh hắn.
Cha Ralph bỗng nẩy ý kiến tập Meggie cỡi ngựa; dù là một cô gái ở đồng
quê, chưa bao giờ Meggie có dịp ngồi trên yên ngựa. Thực tế lạ lùng là
các cô gái xuất thân từ những gia đình nghèo rất ít khi được cỡi ngựa. Đây
là một trò tiêu khiển dành cho các phụ nữ trẻ giàu có - Ở nông thôn hay
thành thị cũng thế.
Một hôm cha Ralph mang từ Gilly đến một đôi ủng ngắn, bộ quần áo cỡi
ngựa và ném các thứ ấy lên chiếc bàn ở nhà bếp gia dình Cleary. Pađy
đang đọc sách sau buổi ăn trưa giật mình, nhìn lên ngạc nhiên.
- Ủa, chuyện gì đó, thưa cha? - ông ta hỏi.
- Bộ đồ đi ngựa cho Meggie.
- Sao? Pađy kinh ngạc.
- Đồ đi ngựa cho Meggie. Pađy à, ông không thể nào vứt bỏ cái lớp nhà
quê của ông hay sao? Ông là người thừa kế của một điền trang rộng và giàu
nhất xứ New South Wales, vậy mà chưa bao giờ ông cho phép cô con gái
duy nhất của ông được cỡi ngựa! Thế thì làm sao con gái của ông giữ được
vị trí bên cạnh ái nữ Carmichael, ái nữ Hopeton và phu nhân Antony King,
tất cả đều là những kỵ sĩ tài ba. Meggie phải tập cỡi ngựa ngồi một bên
theo cách dành cho phụ nữ và cả hai bên như đàn ông. Ông có nghe tôi
không ông Pađy? Tôi biết ông rất bận, vậy tôi sẽ dạy cho Meggie nghệ
thuật cỡi ngựa, dù ông có thích hay không thích. Nếu vì chuyện này Meggie
có xao lãng việc nhà thì cũng chẳng sao. Một vài giờ trong tuần Fiona sẽkhông có Meggie bên cạnh để làm việc nhà. Chúng ta không trở lại vấn đề
này, dứt khoát là như thế.
Pađy không có khả năng đối đầu với một linh mục; thế là từ đó, Meggie bắt
đầu tập cỡi ngựa. Nhiều năm trước đây cô bé ao ước phút giây này. Có
một lần, Meggie đã bày tỏ ước muốn đó với cha nhưng Pađy lại quên, và
cô bé cũng không nhắc lại coi như cha mình im lặng có nghĩa là từ chối.
Được học cỡi ngựa dưới sự hướng dẫn của cha Ralph, Meggie sung sướng
phát điên lên, không hề giấu giếm niềm vui của mình. Sự ngưỡng mộ của
Meggie đối với cha Ralph giờ đây đã biến thành mối tình nóng bỏng của
một cô gái lém lỉnh . Vẫn biết rằng mối tình ấy là không đi đến đâu
nhưng cô bé vẫn tự cho phép mình mơ tưởng về con người ấy. Meggie
tưởng tượng cái cảm giác mà có được khi ở trong vòng tay của cha Ralph
và cả những nụ hôn nồng nàn của cha. Những suy nghĩ thơ thẩn của Meggie
không đi xa hơn; cô bé không có chút ý tưởng gì về điều có thể xảy ra sau
đó, thậm chí không hiểu những diễn biến tiếp theo sẽ như thế nào.
Nếu cô bé biết rằng mơ tưởng đến một linh mục là xấu thì chính cô cũng
không đủ sức để né tránh. Bây giờ cô chỉ còn biết che giấu lòng mình,
không để cho cha Ralph đoán được những ý nghĩ thầm kín.
__________________
Chương 12
Trong khi Mary Carson đang đứng sau cánh cửa sổ phòng khách theo dõi
cả hai người thì cha Ralph và Meggie từ chuồng ngựa đang đi về tận bên
kia đối diện với ngôi nhà lớn, cùng một hướng với nhà của người quản lý.
Những người làm công ở trang trại chỉ được cỡi trên những con ngựa chưa
hề nuôi trong chuồng mà thả ngoài sân hay lang thang đi ăn cỏ. Nhưng ở
Drogheda vẫn có những đàn ngựa rất đẹp mặc dù chỉ có cha Ralph là được
cỡi trên những con ngựa đó. Mary Carson đã giữ lại hai con ngựa thuần
giống đặc biệt dành cho cha Ralph sử dụng, không thể để những con ngựa
già ốm nhom cho cha. Khi cha Ralph hỏi bà Mary Carson có bằng lòng
cho Meggie cỡi trên một trong hai con ngựa ấy không, bà Mary không có
cách nào từ chối. Cô gái là cháu của bà, vả lại lý do của cha Ralph đưa ralà chí lý. Cô bé phải biết cỡi ngựa chứ, cháu gái của bà chủ kia mà.
Trong thâm tâm, bà Mary Carson rất muốn từ chối hoặc ít ra nên cùng đi
với họ. Nhưng bà không thể cưỡng lại lời yêu cầu của linh mục, cũng như
với cái tuổi này bà không thể ngồi trên lưng ngựa được nữa. Thế là bà
đành chịu thua một cách bực tức khi nhìn thấy họ sánh vai đi qua bãi cỏ.
Người đàn ông mặc quần ngắn, đôi ủng cao tới đầu gối, vóc người mảnh
khảnh, nét mặt có chút liến thoắng của con trai. Cặp nam nữ này biểu lộ
tình cảm thân mật và hết sức thanh thản. Đây là lần thứ một ngàn, bà Mary
Carson tự hỏi tại sao ngoài bà ra, không ai đặt vấn đề mối quan hệ ấy.
Pađy thì tỏ ra hết sức bằng lòng về mối quan hệ giữa con gái mình và cha
Ralph, còn Fiona lúc nào cũng im lặng chẳng nói lời nào như khúc gỗ.
Phải chăng vì yêu Ralph de Bricassart mà bà Mary Carson phát hiện ra cái
điều không ai thấy được? Hoặc là óc tưởng tượng của bà đã hại bà? Có
đúng đây là tình bạn giữa một người đàn ông gần 35 tuổi dành cho một cô
gái chưa trưởng thành? Ngu ngốc! Không một người đàn ông nào kể cả
Ralph lại không biết Meggie như bông hồng đang nở sao? Với Ralph thì có
gì lọt qua được con mắt của ông ta đâu?
Bàn tay của Mary Carson run lên, những giọt mực xanh đen rơi xuống làm
bẩn trang giấy trước mặt bà ta. Những ngón tay khẳng khiu đưa vào hộc tủ
lấy ra một tờ giấy khác. Bà lại cầm viết chấm vào bình mực và viết lại
từng chữ, với sự tự tin và viết suông sẻ không khác lần trước. Sau đó bà
đứng lên và nặng nề đi về phía cửa.
- Minnie, Minnie! Bà gọi tọ
- Chúa ơi! Chính bà ta gọi. - Chị hầu phòng kêu lên bằng một giọng trong
trẻo. Con có thể giúp gì cho bà, thưa bà Carson? Chị ta vừa hỏi vừa nghĩ
thầm tại sao bà ta không gọi bà Smith như mọi khi.
- Mày đi gọi ngay thằng làm hàng rào và Tom đến đây ngay.
- Con có cần nói cho bà Smith biết không?
- Không, mày chỉ cần làm theo như tao bảo.
Khi cả hai đến, Mary Carson hỏi:
- Hai anh có biết viết không?
Cả hai vừa nuốt nước miếng để tự trấn an vừa gật đầu.
- Vậy thì tốt. Tôi muốn hai anh nhìn tôi ký tên trên tờ giấy này, rồi hai anh
ký tên và viết địa chỉ của hai anh ở dưới chữ ký của tôi. Hiểu chứ?
Cả hai gật đầu.
Mary Carson chăm chú theo dõi họ và khi hai người đã viết xong, bà trao
cho mỗi người một tờ bạc mười bảng với lời dặn phải biết giữ miệng.
Meggie và cha Ralph đã biến mất tự bao giờ. Mary Carson nặng nề ngồi
xuống bàn viết, lại lấy ra một tờ giấy khác và lại bắt đầu viết. Lần này, có
lẽ do nội dung được viết không đơn giản nên bà không còn khoan thai như
trước. Rất nhiều lần, bà dừng lại để suy nghĩ, môi mím chặt, mỉm cười
nhưng không vui, rồi bà lại tiếp tục. Hình như bà có nhiều điều phải nói:
các hàng chữ san sát nhau, thế mà bà vẫn cần một tờ thứ hai. Sau cùng bà
đọc kỹ một lần nữa, bà xếp lại và cho vào một bao thư, bên ngoài niêm
phong bằng xi đỏ...
Chỉ có Pađy, Fiona, Bob, Jack và Meggie phải đi dự buổi chiêu đãi;
Hughie và Stuart nhẹ nhõm vì được ở nhà để lo cho hai em bé. Thật là một
trường hợp hết sức đặc biệt, Mary Carson đã trút hầu bao khá rộng rãi để
cho mỗi người một bộ quần áo đẹp nhất có thể có được ở Gilly này.
Khi Fiona và Pađy ra khỏi phòng, mấy đứa con trai của hai ông bà hết sức
ngạc nhiên chưa bao giờ chúng lại nhìn thấy cha mẹ ăn mặc đẹp một cách
vương giả như thế.
Tuy nhiên người gây sự chú ý hơn hết trong căn phòng này chính là
Meggie. Có lẽ vì nhớ lại thời nhỏ bị coi rẻ của mình và điên tiết vì các
phụ nữ trẻ khác đều đặt may quần áo ở Sydney nên chị thợ may ở Gilly đã
đặt hết tài năng vào chiếc áo của Meggie. Đó là chiếc áo dài không có tay,
cổ hở khá thấp. Fiona hơi ngại nhưng Meggie lại nài nỉ mẹ chiều mình. Chị
thợ may cam đoan rằng tất cả các thiếu nữ bây giờ đều ăn mặc như thế, lẽ
nào lại để Meggie ăn mặc như một đứa con gái nhà quê, làm trò cười cho
thiên hạ. Thế là cuối cùng Fiona đã nhân nhượng.
Pađy đã há miệng khi đối diện với con gái mình nhưng ông đã kịp kìm chết
lại và không để lọt môi lời nào ra dù cho cổ họng ông nóng ran và ngứa
ngáy. Bài học cay đắng xảy ra ở nhà xứ với Frank tuy đã lâu, nhưng Pađy
vẫn còn nhớ mãi. Ông đưa tay về hướng con gái và mỉm cười dịu dàng.- Ồ, Meggie, con đẹp quá! Đến đây, ba muốn đóng vai chàng hiệp sĩ hộ vệ
con. Còn Bob và Jack lo cho mẹ con.
Tháng tới Meggie 17 tuổi và lần đầu tiên trong cuộc đời, Pađy cảm thấy
mình già. Còn Meggie, vẫn là đứa con gái yêu quí của ông. Không thể để
bất cứ chuyện gì làm hỏng sự xuất hiện lần đầu của Meggie trước đám
đông.
Cha Ralph vẫn mặc chiếc áo thụng như thường lệ Không có một thứ thời
trang nào của đàn ông lại thích hợp với cha Ralph hơn là chiếc áo màu đen
theo một kiểu cắt rất nghiêm trang: rộng ra ở phía dưới, vô số nút chạy dài
từ cổ xuống với chiếc thắt lưng rộng viền đỏ.
Mary Carson mặc toàn một màu trắng, xa tanh trắng, đăng ten trắng và lông
đà điểu trắng trên chiếc áo của bà. Fiona nhìn bà sửng sốt và không còn có
được thái độ thản nhiên như mọi khi. Cách ăn mặc của Mary Carson thật là
lố bịch giống như cô dâu trong ngày cưới, không thể nào tưởng tượng
được. - Tại sao bà ta lại đỏm dáng như một cô gái già thất tình bôi trét
phấn son dị hợm.
Thật ra bà ta giống từng nét một bức ảnh nổi tiếng của nữ hoàng Victoria
chụp trước ngày chết.
Mary Carson cười với Pađy và đặt tay lên vai em trai mình.
- Em có thể đưa tay ra dìu chị đến bàn ăn, Padraic. Còn cha Ralph sẽ đưa
Fiona, mấy đứa con trai thì đi theo Meggie - Con có khiêu vũ tối nay
không, Meggie?
Pađy nhanh miệng trả lời cho con:
- Nó còn nhỏ quá. Nó mới mưòi bảy tuổi. Nói xong Pađy sực nhớ lại, một
thiếu sót khác của gia đình mình là các con đều không hề được tập nhảy.
- Rất tiếc! Bà Mary Carson nói buông thõng.
Cuộc chiêu đã thật rình rang, một vũ hội rực rỡ, sáng chói, không thể nào
quên. Đó là những lời bình phẩm nghe được qua các cuộc trao đổi tối hôm
đó. Royal O'' Mara, từ Inishmurray cách Drogheda 300 cây số cũng có mặt
cùng vợ, các con trai và con gái duy nhất. Dân chúng ở trong vùng không
ngại đường xa 300 cây số để đến dự một trận đấu cricket, môn thể thao ưathích ở Úc, không thể tưởng tượng là họ đi một đoạn dài như thế dự một
cuộc tiếp tân. Duncan Gordon đến từ Each Uisgẹ Martin King với vợ, con
trai Anthony và cô con dâu; Evan Pugh từ Braich Y Pull; Dominic O''
Rourk từ Dibban Dibban, Horry Hoperton từ Beel - Beel và hơn một chục
nhân vật tiếng tăm khác trong vùng. Hầu hết theo đạo Công giáo và rất ít
người trong số họ mang tên Anglo - Saxon; số người Irish, Scottish và
Welsh gần bằng nhau. Có người đồn rằng bà Mary có đủ tiền để mua và
bán cả vua nước Anh nữa. Bà ta đầu tư khai thác thép, bạc, chì, thiếc, đồng
và vàng, bỏ vốn vào hàng trăm xí nghiệp. Drogheda từ lâu không còn được
coi là nguồn sinh lợi chính của bà; thu nhập ở điền trang này không còn có
nghĩa lý gì và chỉ là một công việc làm chơi cho vui của Mary.
Cha Ralph không nói chuyện với Meggie trong buổi ăn và cả sau đó. Suốt
buổi chiêu đãi, ông quên hẳn Meggie. Như bị xúc phạm, cô gái cứ theo dõi
ông khắp phòng. Cảm nhận được sự xao xuyến ở Meggie, cha Ralph đến
gần cô bé, cắt nghĩa cho cô rõ nếu ông tỏ ra chú ý Meggie hơn các cô gái
khác như Carmichael, Gordon hay O'' Mara chẳng hạn thì tiếng tăm của hai
người có thể bị ảnh hưởng xấu. Cũng như Meggie, cha Ralph không khiêu
vũ và cũng như cô, ông thu hút sự chú ý của nhiều thiếu nữ; cả hai đẹp hơn
hẳn tất cả những người có mặt.
Pađy và Fiona vẫn ở lại chơi nhưng vào nửa đêm, Bob và Jack cùng
Meggie rời khỏi cuộc vui. Cha mẹ họ không hay họ đã đi chơi nơi khác.
Khi Meggie rời khỏi phòng, cha Ralph thấy mình trẻ hơn ít nhất mười tuổi.
Ông trở nên sinh động và gây ngạc nhiên cho các cô gái như Hopeton,
Mackail, Gordon và O'' Mara về những bước nhảy với Carmichael. Sau
đó, cha Ralph mời lần lượt tất cả các thiếu nữ, luôn cả Pugh, xấu xí nhất.
Không một người khách nào có thể than phiền rằng con gái mình đã mất cơ
hội khiêu vũ với cha De Bricassart.
Đến ba giờ sáng, Mary Carson đứng lên một cách nặng nề và ngáp:
- Không, cuộc vui cứ tiếp tục! Nếu tôi mệt - quả thật tôi đã mệt - tôi sẽ đi
nằm, đó cũng là ý định của tôi; nhưng thức ăn và đồ uống không thiếu, còn
dàn nhạc đã được trả tiền để chơi cho đến khi không còn một ai muốn nhảy
nữa mới thôi. Hơn nữa có một chút ồn ào chỉ dỗ giấc ngủ tôi thêm nhiềumộng đẹp. Thưa cha, cha có thể giúp đưa tôi lên lầu được không?
Khi rời khỏi phòng chiêu đãi, bà không đi đến cầu thang rộng uy nghi dẫn
lên lầu, mà lại hướng cha Ralph cùng đến phòng khách. Trông bà có vẻ
mỏi mệt, dựa cả người vào cánh tay của cha Ralph. Cửa phòng đóng kín,
bà chờ linh mục dùng chìa khóa do bà trao để mở cửa. Bà đi vào trước.
- Cuộc chiêu đãi thành công đấy bà Mary ạ, ông nói.
- Đây là lần cuối cùng tôi tổ chức, thưa cha.
- Không nên nói thế, bà Mary thân mến.
- Tại sao? Tôi đã chán sống và tôi sẽ kết thúc cuộc sống ở đây. Cha không
tin à? Trong hơn 70 năm, tôi luôn luôn làm đúng những gì tôi muốn. Cho
nên nếu thần chết nghĩ rằng hắn có quyền chọn lựa giờ phút ra đi của tôi thì
hắn sai lầm vô cùng. Tôi sẽ chết vào đúng cái lúc tôi chọn, mà tuyệt nhiên
không phải là tự tử. Chính lòng ham sống giúp cho chúng ta tồn tại; chấm
dứt cuộc sống không khó khăn đâu nếu chúng ta thật sự muốn. Tôi đã mỏi
mệt và tôi muốn chấm dứt. Rất đơn giản.
Cha Ralph cũng thế, rất mỏi mệt, không phải mỏi mệt với cuộc sống mà về
cái bề ngoài không thay đổi ông phải núp ở phía sau, mỏi mệt vì không khí
nhàm chán, sự thiếu vắng bạn tri kỷ và mỏi mệt cả với chính mình. Căn
phòng lờ mờ dưới ánh sáng của một cây đèn dầu bằng thủy tinh màu hồng
ngọc rất quí, ánh đèn tỏ ra những vệt sáng màu hồng lên mặt bà Mary
Carson, làm cho đường nét cứng rắn của quai hàm bà càng trở nên ma
quái. Cha Ralph thấy nhức ở chân, ở lưng, lâu rồi ông không khiêu vũ
nhiều như thế mặc dù ông vẫn tự hào không bị lạc hậu với những kiểu nhảy
mới nhất. Ba mươi lăm tuổi rồi nhưng vẫn là linh mục ở nông thôn... Vậy
thì đến bao giờ mới trở thành một nhân vật đầy quyền lực của Nhà thờ?
Giấc mộng kết thúc trước khi bắt đầu - Ô hô! Những giấc mơ của thời trẻ!
Và những lời nói vô tâm, sự sôi nổi của tuổi trẻ. Ông đã thiếu bản lĩnh để
chiến thắng thử thách. Nhưng không bao giờ ông lặp lại sai lầm cũ, không
bao giờ, không bao giờ...
Không giữ vững được chỗ đứng của mình, ông thở dài, đâu còn gì? Dịp
may không đến hai lần. Đã đến lúc nhìn thẳng các sự việc, chấm dứt hy
vọng và mơ mộng.- Cha Ralph có nhớ không, tôi đã từng nói với cha rằng tôi sẽ đánh bại cha
ngay trên mảnh đất quen thuộc của cha, và tôi sẽ làm cho cha bị sụp vào
chính cái bẫy của cha?
Tiếng nói khôn khan kéo cha Ralph ra khỏi những ý tưởng đang đeo đuổi
trong lúc buồn chán. Ông nhìn Mary Carson và cười.
- Bà Mary thân mến, tôi không quên bất cứ điều gì mà bà đã nói. Tôi tự hỏi
tôi sẽ làm gì nếu trong những năm qua không có sự giúp đỡ của bà. Trí tuệ
của bà, sự khôn ngoan và nhạy cảm của bà trước các sự việc...
- Nếu tôi trẻ hơn, tôi đã chinh phục ông bằng cách khác, Ralph. ông không
bao giờ biết tôi khát khao đến mức nào được lùi lại ba mươi năm. Nếu có
con quỷ nào xuất hiện tặng tôi cái xuân sắc đổi lấy linh hồn tôi, tôi sẽ
không hề do dự một phút và cũng không bao giờ tiếc về cuộc thỏa thuận ấy
như tên già ngu ngốc Faust đâu. Nhưng thôi đừng điên rồ... Tôi không thể
tin vào Chúa lẫn quỉ, ông dư biết. Tôi không thấy có gì chứng tỏ cả hai đều
tồn tại. Còn cha?
- Đúng là lý luận hơi đơn giản.
- Có thể.
- Tôi nghĩ rằng con người đã mang sẵn đức tin trong mình ngay khi vừa
sinh ra. Về phần tôi, đó là cuộc đấu tranh không ngừng với bản thân, nhưng
không bao giờ tôi bỏ cuộc.
- Thế mà tôi lại rất muốn làm ông bỏ cuộc.
- Ô, bà Mary thân mến! Điều đó tôi đã biết! Ông nói với một thoáng đùa,
đôi mắt như nhuộm màu nâu xám dưới ánh đèn.
- Nhưng cha có biết tại sao không?
Một cảm giác sợ hãi tràn ngập cha Ralph. Bỗng chốc ông nhận ra con
người đầy nhược điểm của mình nhưng ông liền lùi ý nghĩ đó.
- Tôi biết, bà Mary ạ. Hãy tin tôi, tôi cảm thấy xót xa về điều đó.
- Ngoài mẹ của ông ra, bao nhiêu phụ nữ đã yêu ông rồi?
- Mẹ tôi có yêu tôi không? Tôi tự hỏi điều đó. Dù sao thì cuối cùng tôi vẫnbị mẹ tôi căm ghét. Phần đông phụ nữ đều như thế cả. Đáng lý tên tôi phải
là Hippolyte.
- Ồ! Điều đó giải thích rất nhiều.
- Còn những người phụ nữ khác, tôi chỉ thấy có Meggie... Nhưng đó là một
cô gái còn bé. Chắc không quá đáng chút nào khi nói rằng có hàng trăm
phụ nữ muốn tôi. Nhưng còn yêu tôi? Tôi nghi ngờ điều này lắm.
- Còn tôi, tôi đã yêu ông. - Bà nói giọng xúc động.
- Không đâu, tôi chỉ là một chất kích thích tuổi già của bà, không hơn
không kém. Khi bà nhìn tôi, tôi làm bà sực nhớ tất cả những ham muốn mà
tuổi tác đã ngăn chặn bà lại.
- Ông lầm rồi. Tôi đã yêu ông. Yêu thiết tha. ông nghĩ rằng tuổi già không
cho tôi có thể yêu à? Thế thì, cha Ralph hãy nghe tôi nói điều sau đây. Bên
trong cái thân xác quái đản này, tôi vẫn còn trẻ... Tôi còn cảm giác, còn
khát khao, còn mơ mộng, tôi vẫn giậm chân và bực tức trước những thua
thiệt của thân xác già nua này. Tuổi già là sự trừng phạt cay đắng nhất mà
Chúa bắt chúng ta phải chịu. Tại sao Người lại không làm cho tâm hồn già
đi cùng một lúc với tuổi tác? Tất nhiên tôi sẽ xuống địa ngục. Nhưng trước
đó tôi hy vọng sẽ có dịp nói với Đấng tối cao rằng ngài là kẻ tồi tệ, khô
khan và đáng khinh bỉ dường nào.
- Bà góa bụa quá lâu, bà Mary. Chúa đã ban cho bà sự tự do chọn lựa,
đáng lý bà nên đi thêm một bước nữa nhưng rồi bà vẫn quyết chọn cuộc
sống độc thân, vậy thì bà chỉ nên trách mình, chứ không thể trách Chúa
được.
Một lúc im lặng, bà bấu chặt lấy hai bên chiếc ghế bành, và cảm thấy dễ
chịu trở lại khi mở mắt ra. Dưới ánh đèn dầu, đôi mắt ấy đỏ và long lanh
nhưng vẫn không có một giọt nước mắt, có cái gì đó đau đớn hơn, trong
suốt hơn những giọt nước mắt giấu kín. Cha Ralph không dám thở mạnh,
ông cảm thấy lo sợ và nghĩ rằng bà ta chẳng khác gì con nhện cái.
- Cha Ralph, trên bàn viết của tôi có một phong bì. Xin ông vui lòng mang
lại cho tôi, cảm ơn ông nhiều lắm.
Cha Ralph e dè đứng lên đi đến bàn và cầm lấy phong bì với một chút tò
mò. Phong bì trắng dán kín, nguyên phía sau đóng xi đỏ con dấu riêng củaMary Carson hình đầu con cừu đực và chữ D bao chung quanh. Ông mang
lại cho bà Carson nhưng liền đó bà ra dấu mời ông ngồi xuống và đưa
phong bì ra phía trước.
- Phong bì này của ông - bà nhếch miệng cười - và số phận của ông ở trong
đó. Ý nghĩa của phong bì này là như thế. Thật tiếc vô cùng, tôi không còn
có mặt ở trên cỏi đời này để chứng kiến những gì sẽ xảy ra, nhưng tôi đoán
biết được chuyện ấy, vì rằng tôi biết rõ ông, biết ông nhiều hơn ông tưởng.
Con người ông kiêu hãnh không thể chịu nổi! Phong bì chứa đựng số phận
cuộc đời và cả linh hồn ông đấy. Tôi đành phải nhường ông cho Meggie
nhưng tôi an tâm vì đã có cách để con bé này cũng sẽ không có được ông.
- Tại sao bà lại cay cú với Meggie đến thế?
- Tôi đã nói với ông rồi. Tại vì ông yêu nó.
- Nhưng tình yêu ấy không như bà hiểu. Meggie đáng tuổi con tôi, mà tôi
thì không bao giờ có con được, cô ấy là niềm vui của đời tôi. Bà Mary ạ,
Meggie đối với tôi là một ý niệm, đúng là một ý niệm!
Bà già cười cay độc:
- Tôi không muốn chúng ta nói về Meggie quí báu của ông! Tôi sẽ mãi mãi
không gặp lại ông do đó tôi không muốn mất thì giờ về chuyện của con bé
ấy. Trở lại cái thư, tôi muốn rằng ông thề với tôi, lời thề của một linh mục
rằng ông sẽ không mở phong bì trước khi chính ông tận mắt nhìn thấy cái
chết của tôi. Ông chỉ mở thư ra trước khi tôi được chôn cất. Ông hãy thề
đi.
- Không cần thế bà Mary ạ. Tôi sẽ làm đúng như lời yêu cầu của bà.
- Ông hãy thề đi, nếu không tôi lấy lại phong thư đấy.
- Thế thì... tôi đồng ý - cha Ralph nhún vai. Đây là lời thề của một linh
mục, tôi xin thề, sẽ không mở thư ra trước khi nhìn tận mắt bà đã chết, và
sẽ đọc thư này trước khi bà được chôn cất.
- Tốt lắm, tốt lắm.
- Bà Mary, xin bà đừng lo lắng! Chẳng qua đây cũng là một ý nghĩ ngông
cuồng đùa giỡn của bà thế thôi. Sáng mai bà lại cười về chuyện này đấy.
- Tôi sẽ không thấy cái sáng mai ấy. Tôi sẽ chết đêm nay; tôi không quá
yếu đuối để nán lại chờ giây phút sung sướng được nhìn thấy ông lần nữa.Không lẽ tôi lại tuột dốc đến thế sao! Tôi đi nghỉ đây. Ông sẵn sàng đưa
tôi lên đến đầu cầu thang chứ?
Cha Ralph không tin điều bà Mary Carson nói nhưng biết rằng cãi lại cũng
vô ích, vả lại bà ta đang trong tâm trạng bất ổn không nên làm buồn lòng bà
bằng một chuyện bông đùa. Chỉ có Chúa là định cái chết của một con
người, ngoại trừ trường hợp theo ý muốn riêng mà ngay cả ý muốn đó cũng
do Chúa đã ban cho ta có thể tự kết liễu đời mình. Nhưng bà đã nói rằng
bà sẽ không tự tử mà. Cha Ralph dìu bà ta bước lên từng bậc thang, bà tỏ
ra rất mệt và cần được giúp thật sự. Đến cuối cầu thang, ông cầm hai tay
của bà lên, cúi xuống định hôn nhưng bà ra rút tay lại.
- Riêng đêm nay, tôi không muốn nhận một cái hôn như thế. Hôn trên môi,
Ralph. Hãy ôm hôn vào môi tôi như thể chúng ta là đôi tình nhân!
Dưới ánh sáng rực rỡ của cây đèn chùm lớn được thắp đến 400 ngọn nến,
bà nhận ra gương mặt của linh mục một vẻ thật kinh tởm, bất giác bà lùi
lại. Bấy giờ bà muốn chết đi, muốn một cách mãnh liệt không thể nào chần
chờ được nữa.
- Bà Mary, tôi là linh mục! Tôi không thể làm chuyện đó.
Mary Carson cười lớn, tiếng cười chát chúa, quái dị
- Ồ, Ralph, ông đúng là một kẻ lừa bịp! Lừa bịp với tư cách con người và
lừa bịp với tư cách một linh mục: ông chẳng là gì hết, Ralph ạ. Một tên lừa
bịp bất lực, vô ích! Một thứ đàn ông bất lực và một linh mục bất lực!
Chương 13Ngoài kia bình minh chưa rõ nét, kể cả vầng sáng xuất hiện trước đó. Bóng
tối êm ái, dày đặc, trong không khí nóng bức còn phủ trùm lên cả
Drogheda. Đi đến đầu bên kia bãi cỏ, cha Ralph đứng sững lại, ngước mắt
nhìn lên trời, tìm kiếm Thượng đế bằng cái ăn ten hoàn toàn bản năng của
mình. Đúng rồi, ở một nơi nào đó trên cao, giữa cái chấm li ti phát ra thứ
ánh sáng tinh khiết và vời vợi, có gì ở giữa màn đêm này? Chỉ cần nhìn
vòm trời đầy sao cũng đã thuyết phục con người tin vào sự vĩnh cửu tồn tại
của Chúa. Tất nhiên bà ta có lý. Một kẻ bịp. Đúng thật là một kẻ bịp.
Chẳng ra linh mục chẳng ra đàn ông. Phải chi có ai đó thử tìm hiểu thế nào
là người này hoặc người kia. Không! Chẳng phải người này, chẳng phải
người kia! Linh mục và đàn ông không thể tồn tại chung với nhau - là đàn
ông có nghĩa là không là linh mục. Tại sao tôi lại để chân kẹt trong mạng
nhện của bà ta? Nọc độc của bà ta thật là dữ dằn, nham hiểm nhiều hơn tôi
tưởng tượng. Trong thư chứa đựng điều gì? Có vẻ như bà ta muốn nhử ta!
Bà ta đã biết gì, đoán gì? Cái gì ở ta mà bà muốn biết hay muốn đoán? Chỉ
có sự trống rỗng và sự cô đơn. Hoài nghi đau khổ. Luôn luôn đau khổ. Tuy
nhiên, bà đã lầm rồi bà Mary ạ. Tôi vẫn có khả năng làm người đàn ông,
tôi không bất lực. Chẳng qua là tôi đã lựa chọn và tôi đã trải qua nhiều
năm tự mình chứng minh rằng cái phút giây nổi dậy của thể xác có thể kìm
chế được.
Có ai đó khóc thì thầm trong nghĩa trang. Đúng là Meggie. Cha Ralph kéo
cao áo choàng lên, leo qua hàng rào sắt, không cưỡng lại được lòng háo
hức muốn gặp Meggie vì tối qua ông chưa kịp từ giã. Bản tính dửng dưng
đùa cợt trở lại với ông, bà ta không thể nào kéo ông ra khỏi cái bóng hình
vẫn ám ảnh ông. Con nhện già nham hiểm! Cầu Chúa trừng phạt bà ta bị
rữa thây ra. Bị rữa thây ra.
- Meggie thương yêu, đừng khóc nữa - ông ngồi xuống cạnh cô gái trêm
thảm cỏ ướt đẫm sương. Cha đoán chắc con không mang theo khăn tay.
Cầm lấy khăn của cha, lau nước mắt đi, ngoan nào.
Meggie cầm mảnh vải và vâng lời lau nước mắt.
- Con chưa thay cả chiếc áo đẹp này à. Con ngồi đây từ nửa đêm phải
không?- Con nói với hai anh là con đi ngủ.
- Thế thì tại sao con ra đây? Có chuyện gì hả Meggie?
- Hồi hôm, cha không nói với con một lời.
Xa xa về phía Đông trời ửng lên chút ánh sáng màu ngọc trai.
Mấy con gà trống ở Drogheda đón hiệu bình minh bằng tiếng gáy rát cả cổ
họng. Bấy giờ cha Ralph nhìn rõ dấu vết của những giọt nước mắt đêm qua
không làm mờ được ánh mắt tuyệt đẹp của Meggie.
- Meggie, trong buổi tiếp tân đêm qua, con là cô gái xinh đẹp nhất, không
có ai sánh bằng. Nhưng người ta cũng biết cha thường đến Drogheda nhiều
hơn là công việc thật sự đòi hỏi. Cha là linh mục, vì thế, cha đứng trên mọi
sự nghi ngờ. Tuy nhiên, cha e người ta không nhìn các sự việc bằng con
mắt ấy. Trong các linh mục, cha được coi là người còn trẻ và dễ coi. Nếu
cha chú ý và con một chút thôi thì cả Gilly này sẽ biết tức khắc. Rồi tất cả
các đường dây điện thoại sẽ loan truyền tin ấy. Con có hiểu cha nói gì
không?
Meggie lắc đầu, những lọn tóc quăn óng ánh càng lúc càng rực rỡ dưới ánh
mặt trời.
- Con còn quá trẻ để hiểu các chuyện rắc rối của đời này - ông nói tiếp -
nhưng cha phải cho con biết dần. Và hình như, cũng lại chính cha là người
dạy dỗ con. Điều mà cha muốn con phải hiểu là dư luận đồn đãi rằng cha
chú ý đến con với tư cách đàn ông, chứ không phải với tư cách linh mục.
- Thưa cha...
- Ghê tởm, phải không Meggie? - ông mỉm cười - nhưng đó là điều mà họ
nói, cha đoan chắc với con thế. Con phải hiểu, Meggie, con không còn là
đứa trẻ con nữa, con là một cô gái. Thế nhưng con lại chưa biết che giấu
tình cảm mà cha dành cho con, nếu cha đến gần con, nói chuyện với con
trước nhiều người đang theo dõi thì ánh mắt của con sẽ tự thú con ngay, và
người ta không thể không hiểu sai trái thái độ của con.
Meggie nhìn cha Ralph một cách hơi kỳ lạ, không thể nào hiểu được.
Meggie quay đi nơi khác và cha Ralph chỉ nhìn thấy một nửa gương mặt.
- Vâng, con đã hiểu. Trước đây con thật là ngu đần không hiểu điều ấy.
- Con thấy đã đến lúc phải về nhà chưa? Hiện giờ hầu hết mọi người cònngủ nướng trên giường, nhưng lỡ có ai thức dậy sớm như mọi khi, con lại
gặp rắc rối đấy. Con không thể nói con vừa đi với cha về mà cũng không
thể nói con đã có mặt ở nhà, Meggie ạ.
Meggie đứng lên, bất động một lúc, mắt nhìn xuống cha Ralph.
- Con đi đây, thưa cha. Nhưng con cầu mong mọi người hiểu cha hơn, như
thế sẽ không ai đặt điều những chuyện như thế về cha. Nhưng có phải cha
không hề vấn vương những ý tưởng như vậy?
Do một chuyện gì đó, câu hỏi của Meggie làm tổn thương ông, tổn thương
nặng nề, hậu quả của nó còn hơn cả những lời châm chọc ác độc của Mary
Carson.
- Không, Meggie. Con nói đúng. Cha không hề nuôi những ý tưởng như thế.
Không, cha hoàn toàn không nghĩ đến. Con về đi, Meggie. Con về nhà đi!
Cha Ralph nhìn theo Meggie đang chạy giữa các nấm mồ, rồi trèo qua hàng
rào thấp. Dưới lớp áo dài thêu những bông hoa hồng, thân hình của Meggie
đẹp dịu dàng, đầy nữ tính và một chút gì đó như không thật.
Vào xế chiều cha Ralph có cảm giác một bàn tay chạm nhẹ vào vai. Ông
giơ tay định nắm lấy nhưng vẫn không đủ nghị lực để mở mắt ra. Ông muốn
giữ lại bàn tay ấy trên má mình.
- Meggie, ông thì thầm.
- Thưa cha, thưa cha! Cha ơi hãy thức dậy!
Giọng nói của bà Smith kéo ông ra khỏi cơn mê ngủ và ông tìm lại ngay sự
tỉnh táo.
- Chuyện gì đó bà Smith?
- Bà Mary Carson... thưa cha. Bà đã chết.
Đồng hồ đeo tay của ông chỉ sáu giờ hơn. Còn ngái ngủ và mỏi mệt bởi cái
nóng nặng nề của ban ngày, cha Ralph vội vàng cởi bộ đồ ngủ và mặc vào
chiếc áo chùng, choàng lên cổ chiếc khăn lễ, lấy dầu làm lễ xức nước
thánh, cây thánh giá lớn bằng bạc, tràng chuỗi hạt màu đen. Ông không cho
rằng bà Smith lầm lẫn. Ông biết là con nhện già đã chết. Bà ta có cố tìnhthúc đẩy cái chết sớm hơn? Nếu như thế, cầu Chúa, bà không để lại một
chứng cớ nào rõ rệt và cái chết của bà không làm cho bác sĩ nghi ngờ. Làm
lễ xức dầu cho bà ta có ích lợi gì, ông cũng không biết, nhưng dù sao vẫn
phải làm điều đó cho bà. Nếu ông từ chối làm lễ, thì sẽ có cuộc điều tra,
và rồi sẽ đẻ ra đủ thứ chuyện rắc rối. Ông cho rằng bà Mary chết vì tự tử,
thế thì làm lễ thánh trên thi thể của bà là một sự xúc phạm đến những gì
thiêng liêng nhất.
Bà ta đã chết thật. Có lẽ đã chết vài phút sau khi cha Ralph từ giã, như vậy
là cách đây khoảng mười tiếng đồng hồ. Các cửa sổ đều đóng thật kín,
trong phòng có mùi ẩm của hơi nước chứa trong mấy chiếc chậu. Khi còn
sống bà vẫn làm như thế để giữ cho da luôn mát và mịn. Có tiếng vo vo lạ
tai trong không khí, sau một lúc ngơ ngác, cha Ralph nhận ra đó là tiếng
ruồi bay; từng đàn lượn quanh, kéo nhau bu lại thưởng thức buổi tiệc thịnh
soạn trên thi thể của bà Mary. Chúng bay qua lại, ghép đôi và đẻ trứng trên
cơ thể đã lạnh của bà.
- Vì tình thương của Chúa, bà Smith hãy mở cửa sổ ra.
Cha Ralph kêu lên, hơi thở dồn dập. Mặt tái nhợt, ông đến gần giường.
Một mùi hôi thối khó chịu hơn cả con ngựa chết ở ngoài bãi. Ông ghê tởm
không dám chạm vào thi thể của bà cũng như ông đang ghê tởm không dám
chạm vào người bà khi bà còn sống, nhất là trên hai môi lúc nhúc đầy
trứng ruồi.
Cuối cùng thì mọi việc đều xong xuôi. Cha Ralph đứng thẳng người lên:
- Bà Smith, chạy đi báo cho ông Cleary hay, nói với ông ấy ra lệnh cho
các con trai đóng ngay một quan tài. Chúng ta không còn thời giờ để chờ
mang quan tài từ Gilly đến, thi thể của bà đang thối ra. Lạy Chúa! Tôi
muốn nôn ra và phải đi tắm ngay. Tôi để quần áo ở ngoài cửa, bà hãy đem
đốt giùm tôi. Mãi mãi tôi không thể tẩy xóa được mùi hôi thối thấm vào
người tôi.
Trở về phòng riêng, cha Ralph mặc chiếc quần đi ngựa và áo sơ mi, bỗng
ông nhớ lại phong thư và lời thề của mình.
Phong bì chứa bốn tờ giấy; ông mở từng tờ và nhận ra ngay hai tờ sau là di
chúc của Mary Carson. Hai tờ đầu dưới hình thức thư riêng, viết cho ông.Ralph thân mến của tôi,
Như ông đã nhận ra, văn bản thứ hai chứa đựng trong phong bì này là di
chúc của tôi. Tôi có lập một di chúc khác, ký tên và đóng khằn lại hoàn
toàn có giá trị, hiện nằm tại văn phòng của Harry Gough ở Gilly. Di chúc
trong phong bì này được lập sau đó rất lâu, và tất nhiên nó có giá trị vô
hiệu hóa di chúc mà Harry đang giữ.
Thật ra, tôi đã lập di chúc thứ hai chỉ cách đây mấy ngày. Tôi đã yêu cầu
Tom và người thợ làm hàng rào ký tên dưới di chúc với tư cách người làm
chứng; vì tôi hiểu biết rằng không thể gọi người được thừa hưởng để làm
thủ tục này. Văn bản hoàn toàn hợp pháp dù rằng người lập không phải là
Harry. Không một tòa án nào trong cả nước, có thể phủ nhận giá trị của bản
di chúc sau, tôi cam đoan với ông như thế. Nhưng tại sao tôi không yêu cầu
Harry lập di chúc này nếu tôi muốn sửa đổi nội dung của di chúc thứ nhất?
Lý do thật đơn giản, Ralph thân mến của tôi. Tôi thật lòng muốn không một
ai ngoài tôi và ông sẽ biết là có tờ di chúc này. Đây là bản duy nhất và bản
này ở trong tay ông. Không một người nào biết được việc này cả, đây là
một phần rất quan trọng trong kế hoạch của tôi.
Ông có nhớ đoạn trong kinh thánh kể lại Xa tăng đưa Chúa Jesus Christ lên
núi và cám dỗ Người bằng cách hứa trao cho Người cả thế giới? Thật là
thú vị nếu tôi biết được tôi có một quyền lực của Xa tăng và tôi có khả
năng cám dỗ người tôi yêu (ông có hoài nghi về chuyện Xa tăng yêu Chúa?
Tôi thì không) bằng cách trao cho người ấy cả thế giới. Trường hợp của
ông đứng trước hai con đường phải chọn đã luôn kích thích suy nghĩ của
tôi trong suốt những năm gần đây và khi tôi càng đến gần cái chết thì những
gì tôi hình dung trong đầu lại càng mang đến cho tôi nhiều thích thú.
Sau khi đọc tờ di chúc, ông sẽ hiểu tôi nói với ngụ ý gì. Trong khi tôi bị
hỏa thiêu dưới địa ngục, bị loại ra khỏi cái thế giới mà hiện giờ tôi biết thì
ông vẫn còn sống, nhưng ông cũng sẽ bị thiêu trong một địa ngục của những
ngọn lửa dữ dội hơn các ngọn lửa mà không một thần linh nào có thể tạo ra
được. Ralph của tôi! Tôi đã tìm hiểu ông đến tận cùng! Rất có thể tôi
chẳng làm được việc gì khác nhưng tôi lại rất biết cách hành hạ nhữngngười tôi yêu. Và ông là một con mồi vô cùng hấp dẫn so với người chồng
quá cố Michael thân yêu của tôi.
Khi tôi mới biết ông, ông có ý muốn chiếm đoạt Drogheda và tiền bạc của
tôi, phải không Ralph? ông coi cả hai là một phương tiện giúp ông mua cái
quyền đạt tới giá trị mà ông mong muốn. Nhưng lúc đó, Meggie xuất hiện
và ông đã loại ngay trong đầu ông mọi ý nghĩ mua chuộc tôi, phải thế
không? Tôi đã trở thành cái bình phong cho các cuộc lui tới của ông ở
Drogheda, tạo cơ hội cho ông gặp cô bé ấy. Tôi tự hỏi ông có dễ dàng thay
đổi sự trung thành của ông hay không nếu ông biết đích xác tôi có một tài
sản lớn như thế nào. Ông hoài nghi phải không Ralph? Tôi nghĩ rằng ông
không tin điều đó. Đúng là rất khó coi về phía người để lại di chúc khi
phải kê khai giá trị chính xác của di sản, nhưng theo đánh giá của tôi, tôi
thấy tốt hơn cứ nêu ra đây giúp ông an tâm biết rằng ông có đủ các dữ kiện
để lấy một quyết định khi thời điểm đến. Nếu có sai lệch cũng chỉ khoảng
vài trăm ngàn bảng, tài sản của tôi lên tới trên 13 triệu đồng sterling.
Tôi đang viết cuối trang hai và tôi không có ý định nán lại lâu hơn nữa với
lá thư này. Hãy đọc di chúc tôi, Ralph. Và khi đã đọc xong, ông cứ quyết
định lấy ông sẽ làm gì. Hoặc ông sẽ trao cho Harry Gough để chính thức
hóa, hoặc ông đốt nó đi và không nói một lời với bất cứ ai về sự tồn tại
của nó? Đây là một quyết định hoàn toàn thuộc quyền của ông. Tôi thấy cần
nói thêm rằng di chúc nằm ở văn phòng của Harry đã được tôi thảo ra một
năm sau khi Pađy đến đây. Trong di chúc đó, tôi để lại hoàn toàn tài sản
cho em trai tôi. Bây giờ thì ông biết chính xác chuyện gì được đặt ra với
ông.
Ralph, tôi yêu ông đến mức tôi có thể giết ông vì ông đã xua đuổi tôi, nếu
tôi không kịp suy nghĩ lại cách trả thù đó là quá nhẹ nhàng. Tôi không
thuộc loại người cao thượng; tôi yêu ông, nhưng tôi muốn ông gào thét lên
vì kinh hoàng. Vì rằng, tôi biết rất rõ quyết định mà ông sẽ chọn. Tôi biết
một cách chắc chắn như là tôi ở đó đang nhìn ông. Ông sẽ gào thét lên,
Ralph, và ông sẽ biết thế nào là nỗi kinh hoàng. Thế thì cứ đọc đi, chàng
linh mục đẹp trai đầy tham vọng của tôi! Hãy đọc di chúc của tôi và hãy
quyết định số phận của mình.Lá thư không có chữ ký, kể cả chữ ký tắt. Cha Ralph cảm thấy mồ hôi ướt
đẫm trán mình, nhỏ giọt từ gáy xuống lưng. Và ông muốn đứng dậy ngay,
đem đốt cả hai văn bản, không cần xem nội dung của tờ di chúc. Nhưng
quả thật bà ta hiểu quá nhiều con mồi của mình, cái con nhện già, phục
phịch ấy. Tất nhiên rồi linh mục lại tiếp tục đọc văn bản thứ hai. Ông quá
tò mò để có thể chống lại sự cám dỗ. Chúa ơi! Ông đã làm gì mà để cho bà
ta nhận chìm vào một cơn xoáy kinh khủng như thế? Tại sao phụ nữ lại
mang đến cho ông lắm khổ lụy? Tại sao thân xác ông không lùn thấp, tật
nguyền, xấu xa? Nếu được như thế, biết đâu ông sẽ hạnh phúc?
Hai tờ giấy kia của di chúc cũng cùng một tuồng chữ nhỏ nhắn và chi li.
Cũng ti tiện và hằn thù như lòng dạ đàn bà.
Tôi ký tên dưới đây là Mary Carson, khỏe mạnh và sáng suốt, tuyên bố đây
là di chúc của tôi, có giá trị vô hiệu hóa và tiêu hủy các di chúc cũng do
tôi lập ra trước đây.
Ngoại trừ các vật di tặng nêu ra dưới đây, tôi để lại toàn bộ động sản và
bất động sản cho Tòa thánh La Mã, với những điều kiện sau đây:
Thứ nhất, Tòa thánh La Mã đã nêu trên (dưới đây sẽ gọi tắt là Tòa thánh)
phải hiểu rằng tôi đã kính trọng và thương yêu như thế nào người đại diện
của Chúa, cha Ralph. Duy nhất vì long nhân đức của cha, do sự biết ơn ở
người đã hướng dẫn linh hồn tôi, do sự giúp đỡ mà cha mang đến cho tôi
và không bao giờ từ chối, chính vì những lý do ấy mà tôi đã để lại toàn bộ
tài sản của tôi cho Tòa thánh.
Thứ hai, Tòa thánh tiếp tục hưởng các quyền lợi của di sản này cho đến khi
Tòa Thánh còn thừa nhận phẩm giá và khả năng của cha Ralph nói trên.
Thứ ba, chính cha Ralph đã nêu có trách nhiệm quản lý và điều hành tất cả
động sản và bất động sản với tư cách là người quản lý chính của di sản
này.
Thứ tư, nếu cha Ralph được nêu trên qua đời thì tờ di chúc của cha sẽđược nhìn nhận về mặt pháp lý liên quan đến sự quản lý tiếp tục tài sản
của tôi. Có nghĩa là Tòa thánh vẫn tiếp tục làm chủ tài sản này nhưng linh
mục Ralph là người duy nhất có thẩm quyền chỉ định người thay thế cha để
quản lý. Không bắt buộc người thay thế cha Ralph phải được chọn trong
giáo sĩ hay người ngoài giáo hội, theo đạo Công giáo.
Thứ năm, điền trang Drogheda không được bán hay phân chia.
Thứ sáu, em tôi Padraic Cleary, phải được giữ lại làm người quản lý điền
trang Drogheda, được quyền ở lại tòa nhà của tôi và được trả hàng tháng
một số tiền lương mà chỉ có cha Ralph biết được mà thôi.
Thứ bảy, trong trường hợp em tôi Padraic Cleary qua đời, thì vợ em tôi và
các con em tôi được quyền tiếp tục ở tòa nhà đó và cương vị quản lý điền
trang sẽ trao cho các con của em tôi theo thứ tự Rober, John, Hugh, Stuart,
James va Patrick; danh sách này loại Francis.
Thứ tám, khi Padraic qua đời và đứa con cuối cùng của em tôi cũng qua
đời thì các quyền lợi dành cho Padraic Cleary sẽ được chuyển sang các
cháu của em tôi.
Những di tặng riêng.
Để lại cho Padraic Cleary tất cả đồ đạc trong các ngôi nhà nằm trên đất
của điền trang Drogheda. Bà Eunice Smith, quản gia của tôi, được quyền ở
lại cương vị hiện nay của bà với số lương xứng đáng cho đến khi nào tùy ý
muốn của bà, ngoài ra trao ngay cho bà số tiền năm ngàn bảng Anh. Khi bà
về hưu, trả cho bà một trợ cấp đầy đủ.
Với Minerva O'' Brien và Catherine Donnelly, cả hai được quyền ở lại
cương vị mình cho đến khi nào tùy ý. Trao cho mỗi người một ngàn bảng
Anh ngay bây giờ và khi về hưu cả hai nhận một số tiền trợ cấp đầy đủ.
Với cha Ralph, hàng năm hưởng một số tiền là mười ngàn bảng Anh, như
thế suốt cả đời, để cho cha sử dụng việc riêng không cần báo cáo.
Tờ di chúc có chữ ký hợp lệ, ghi rõ ngày tháng và có chữ ký người chứng.
Phòng của cha Ralph nhìn ra hướng Tây. Mặt trời đang lặn. Màn bụi mỏng
xuất hiện vào mỗi mùa hè phủ lên cả không gian đang chìm trong yên lặng.
Các tia mặt trời xuyên qua màn bụi li ti ấy không khác gì những ngón tay,tất cả sáng rực lên màu vàng ánh và màu tía.
- Hoan hô Mary! Ông nói một mình. Bà Mary ơi, tôi phải nhìn nhận là bà
đã thắng tôi. Một đòn của bậc sư, tôi là người bị lừa, chứ không phải bà.
Nước mắt rơi xuống từ lúc nào làm cha Ralph không còn nhìn thấy rõ các
tờ giấy đang cầm trên tay; ông vội vã đưa ra xa để tránh khỏi bị nhòa.
Mười ba triệu đồng bảng Anh. Mười ba triệu đồng bảng Anh. Đúng lắm,
đó là mục tiêu mà ông nhắm đến trước thời gian ông gặp Meggie. Với sự
xuất hiện của Meggie, ông đã bỏ rơi kế hoạch vì rằng ông không thể lạnh
lùng tiến hành một chiến dịch mà ông biết cuối cùng truất quyền thừa kế
của Meggie.
Nhưng nếu ông biết trước chính xác tài sản của con nhện già kếch sù như
thế thì ông đã như thế nào? Phản ứng của ông sẽ ra sao? Ông không bao
giờ tưởng tượng rằng Mary Carson có thể để lại cho ông một phần mười số
tiền này, nói chi mười ba triệu đồng bảng Anh?
Suốt bảy năm, Pađy và gia đình sống âm thầm trong ngôi nhà dành cho viên
quản lý. Mọi người trong gia đình làm việc cật lực cho Mary Carson? Vì
cái gì? Vì khoản tiền công bủn xỉn của bà ta sao? Chưa một lần cha Ralph
chứng kiến Pađy than phiền sự đối xử keo kiệt của người chị, có lẽ Pađy
nghĩ rằng ông ta sẽ được đền bù lại khi Mary Carson qua đời. Pađy chịu
đựng đến mức quen dần và cuối cùng yêu thương Drogheda như điền trang
này cũng sẽ thuộc về ông thôi.
- Mary, bà thật là tinh quái, cha Ralph lặp lại một mình.
Lần đầu tiên kể từ thuở ấu thơ, những giọt nước mắt rơi đầm đìa trên tay
ông nhưng không hề rơi lên tờ di chúc.
Mười ba triệu bảng Anh; và còn có cả khả năng trở thành Hồng Y
Bricassart. Dĩ nhiên là bằng cách tước đoạt quyền thừa kế của Pađy, vợ
ông ta, các con trai ông ta - và Meggie. Trời ơi, hình như bà ta đã hết sức
quỷ quái thấy được cả ruột gan của mình! Nếu Mary tước đoạt công sức
Pađy, một cách trần trụi, thì con đường của cha Ralph được vạch ra quá rõ
ràng: ông ta sẽ cầm ngay tờ di chúc, đứng lên đi xuống bếp, và ném nó vàolò lửa không một chút do dự. Nhưng không, Mary Carson không làm thế,
bà lại bảo đảm cho Pađy không túng thiếu, lại có được một cuộc sống dễ
thở hơn ở Drogheda sau cái chết của bà ta, mặt khác điền trang này cũng
không hẳn truất khỏi tay ông. Thu nhập các loại của điền trang và quyền sở
hữu ông không được hưởng, đúng thế, nhưng ông vẫn ở trên đất đó. Vâng,
ông không làm chủ cái tài sản kếch sù 13 triệu bảng Anh, nhưng ông vẫn
được kính trọng và sống một cách đầy đủ. Meggie không bao giờ đói,
không bị tước đoạt tất cả. Có điều là Mary Carson không tạo điều kiện cho
Meggie sánh ngang vai với tiểu thư Carmichael và giới thượng lưu thuộc
địa. Hoàn toàn được kính trọng, được chấp nhận trong giới giàu sang
nhưng không bao giờ thuộc hẳn vào tầng lớp bên trên. Không bao giờ.
Mười ba triệu bảng Anh. Đủ điều kiện để rời bỏ Gillanbone và bóng tối
vĩnh cửu, tạo được một vị trí trong hàng chức sắc của Nhà thờ, được lòng
những người ngang hàng và cả với các đấng bề trên. Tất cả những điều
thuận lợi ấy đến giữa lúc ông còn trẻ, còn có thể tranh thủ những gì bị bỏ
dở lâu nay. Mary Carson đã biến Gillanbone thành trung tâm lãnh địa dành
riêng cho Đức Tổng giám mục đại diện của Giáo hoàng. Dư âm của sự
việc này sẽ vang dội đến Vatican, đó là cách trả thù của bà. Dù cho giáo
hội giàu có đến đâu, mười ba triệu bảng Anh vẫn là mười ba triệu bảng
Anh. Đó không phải là một số tiền có thể coi nhẹ, dù với giáo hội đi nữa.
Và chính cha Ralph là người duy nhất có thể đưa tài sản kếch sù ấy về cho
Nhà thờ, ông là người đã được nhìn nhận tờ di chúc; chính bà Mary
Carson đoán trước điều đó, cầu Chúa đày mụ già này mục xương dưới địa
ngục! Nhưng chắc chắn Pađy sẽ giận dữ, sẽ từ chối nhìn mặt và từ nay
chẳng thèm nói một lời nào với ông. Nhưng dù có giận dữ, ông ấy cũng sẽ
không kiện được ra tòa.
Thật sự có cần lấy một quyết định không? Quyết định ấy, cha Ralph đã biết
rồi. Ngay lúc vừa đọc tờ di chúc ông đã biết sẽ phải phản ứng như thế nào.
Nước mắt đã khô ráo. Cha Ralph đứng lên, nhẹ nhàng và gọn gàng như mọi
khi, ông xem lại chiếc áo sơ mi bỏ vào quần đã gọn gàng chưa, rồi đến gần
cửa. Ông phải đi ngay Gilly, để lấy chiếc áo dòng và các thứ khác để làm
lễ tang. Nhưng trước hết, ông phải nhìn mặt Mary lần cuối.Các cửa sổ vẫn mở toang nhưng mùi hôi thối vẫn xông lên, không có một
ngọn gió nhẹ. Đi những bước dứt khoát, ông đến gần giường, nhìn xuống.
Những trứng ruồi đẻ đã bắt đầu nở thành dòi, lổn ngổn trên gương mặt có
nhiều nơi ẩm ướt. Bàn tay và cánh tay Mary đã sình lên, da nứt ra với
những đốm màu xanh tái. Ôi lạy Chúa! Sao con nhện già lại gớm ghiếc như
thế. Nhưng mụ sẽ không bao giờ thắng được Meggie của ta, không thể nào
tước đoạt ở Meggie những gì không thuộc về mụ. Rất có thể ta cũng bị
thiêu ở hỏa ngục kế bên mụ nhưng ta biết trước hỏa ngục dành cho mụ như
thế nào: mụ mong muốn vô cùng hai chúng ta sẽ cùng nhau rục xương trong
vĩnh cửu nhưng mụ sẽ vẫn thấy ta hết sức dửng dưng trước mụ.
... Cha Ralph trầm ngâm khá lâu, lâu hơn thời gian đi về nhà xứ và trở lại.
Trước khi về nhà, ông đã ghé lại nhà của Harry Gough ở Gillanbone.
Harry Gough vừa ngồi vào bàn ăn, đứng dậy và đi thẳng vào phòng khách
khi được chị giúp việc báo tin cha Ralph đến.
- Thưa cha, xin mời cha dùng cơm. Có thịt bò nấu nhừ với khoai tây luộc,
đặc biệt thịt bò không mặn lắm.
- Không, cảm ơn Harry, tôi không thể dùng cơm với ông được. Tôi ghé qua
đây để cho ông biết bà Mary Carson đã mất sáng naỵ
- Chúa ơi! Tôi mới dự buổi tiếp tân của bà tối hôm qua! Bà ta trông khỏe
mạnh lắm thưa cha!
- Đúng thế. Bà ta còn rất khỏe khi tôi dìu bà lên cầu thang hồi ba giờ,
nhưng hình như bà chết ngay khi nằm xuống. Bà Smith phát hiện điều đó
vào lúc sáu giờ chiều hôm nay.
- Ngày mai sẽ chôn?
- Phải, chôn ngày mai.
- Nhờ cha nói cho ông Pađy biết tôi sẽ mang di chúc của bà Mary Carson
đến để kịp mở ra đọc ngay sau khi mai táng. Cha cũng là một trong những
người được hưởng một phần tài sản, thưa cha. Do đó tôi cũng mời cha
chứng kiến lúc đọc di chúc.
- Tôi e rằng chúng ta gặp một chút rắc rối, Harry. Ông có biết không, Mary
đã lập một tờ di chúc khác. Tối hôm qua sau khi rời cuộc tiếp tân, bà đã
trao lại cho tôi một phong thư được khằn kín và buộc tôi, phải long trọnghứa với bà chỉ mở phong thư ấy ra sau khi tôi biết chắc bà đã qua đời. Tôi
đã làm theo ý nguyện của bà và được biết phong thư ấy chứa đựng một di
chúc.
- Bà Marry đã lập một di chúc khác? Không có mặt tôi.
- Hình như thế. Theo tôi nghĩ bà ta đã tính việc này từ lâu, nhưng không
biết lý do nào đã thúc đẩy bà giữ kín như thế.
- Cha có mang theo di chúc đó không?
- Có.
Cha Ralph đưa tay vào áo rút ra bản di chúc được xếp rất cẩn thận và trao
cho Harrỵ
Vị trưởng khế không cần tỏ ra chút tế nhị nào, ông ta đọc ngay tại chỗ. Khi
đọc dứt, ông ngước lên nhìn cha Ralph. Linh mục thấy trong mắt ông ta
điều mà linh mục chẳng muốn thấy chút nào: sự ngưỡng mộ, sự giận dữ rồi
sự khinh bỉ nào đó.
- Thế thì xin có lời chúc mừng cha. Cuối cùng thì cha thừa hưởng trọn tất
cả.
Vì không là người công giáo, ông ta tự cho phép mình nhận xét như thế với
cha Ralph.
- Này ông Harry, hãy tin tôi, điều này làm cho tôi bất ngờ không kém ông
đâu.
- Có phải đây là bản duy nhất?
- Theo tôi biết thì đúng thế.
- Và bà đã trao cho cha lúc khuya đêm qua?
- Vâng.
- Vậy thì tại sao cha không tiêu hủy nó đi để có thể bảo đảm cho Pađy
được thừa kế những gì đáng lý thuộc quyền của ông ấy? Nhà thờ không có
lý do gì yêu sách tài sản của bà Mary Carson.
Linh mục Ralph nhìn thẳng ông trưởng khế không có chút gì quỷ quyệt:
- Ồ, như thế thì không đúng đắn, Harry! Quyền sử dụng tài sản như thế nào
thuộc về bà Mary Carson.- Tôi sẽ cố vấn cho Pađy đâm đơn kiện chống lại tờ di chúc thứ hai.
- Ông có lý.
Sau câu nói đó hai người chia tay nhau. Sáng hôm sau ngay khi chưa ai đến
đưa đám, cả thị trấn Gillanbone và khắp trong vùng đã biết tin tài sản của
bà Mary Carson về tay ai. Ván bài đã lật ngửa, hết đường thối lui.
Cha Ralph cho ô tô dừng lại cách dãy phía sau nhà khá xa, ông bước xuống
và đi chầm chậm. Các cửa sổ đều có ánh sáng dội ra. Có bóng đen nào đó
ở một nơi khuất sau cây đậu tía. Cha Ralph đứng lại, giật mình rởn tóc gáy.
Con nhện cái già vẫn có những cái cách riêng của bà ta để gây bất ngờ.
Nhưng không, hóa ra là Meggie trong bộ quần áo đi ngựa với đôi giày ống
cao đang sốt ruột chờ ông trở lại.
- Con làm cho cha hoảng sợ, ông nói cụt ngủn.
- Con xin lỗi cha. Con không muốn làm thế. Nhưng con cũng không muốn ở
trong nhà với ba và các anh con. Mẹ con ở đàng nhà với hai em, đáng lý
giờ này con phải cầu kinh với bà Smith, Minnie và Cat, nhưng con không
muốn cầu nguyện cho bà Mary. Như thế là có tội phải không cha?
Chính vào lúc ấy cha Ralph không cho phép ông nói điều gì đó làm vui
lòng linh hồn của Mary Carson.
- Cha không cho rằng đó là một tội lỗi, Meggie à. Ngược lại, chính sự giả
dối mới là có tội. Cha cũng thế, cha không muốn cầu nguyện cho bà ta. Bà
ấy... không tốt lắm. Thế thì nếu con mắc tội vì đã nói cho cha biết suy nghĩ
của con, thì cha cũng thế, nhưng riêng trong trường hợp của cha thì tội nặng
hơn. Tội bắt buộc phải yêu thương mọi người, gánh nặng ấy con không
phải gánh như cha.
- Cha có khỏe không?
- Khỏe, tốt lắm, ông vừa nói vừa nhìn lên tòa nhà, sau đó là một tiếng thở
dài. Cha cũng không muốn vào trong đó chút nào. Có thế thôi. Cha không
muốn ở chung dưới một mái nhà với bà ta cho tới sáng và chờ đợi cho bọn
ma quỉ, tối tăm, bị xua đuổi. Nếu ngay bây giờ cha thắng ngựa, con có chịu
cùng cha đi dạo cho tới lúc trời sáng không?
Bàn tay của cô gái phớt nhẹ qua tay áo đen rồi để rơi xuống.
- Con cũng vậy, con không muốn vào trong đó.- Con chờ cha một phút để cha cất chiếc áo chùng vào ôtô.
- Con đi xuống chuồng ngựa.
Lần đầu tiên, cô muốn đối diện với cha Ralph ngay trên tư thế của ông; tư
thế của người lớn; còn cha Ralph thì cảm nhận rõ ràng sự thay đổi ở
Meggie như cảm nhận hương thơm hoa hồng ngào ngạt trong vười bà Mary
Carson. Những hoa hồng. Tro của hoa hồng. Hoa hồng, đâu đâu cũng hoa
hồng. Những hoa hồng, về đêm chỉ còn lại hương thơm. Hương thơm của
hoa hồng. Meggie thân yêu của ta, ta đã bỏ rơi cô ta. Nhưng cô ta có hiểu
không, cô ta đã trở thành một mối đe dọa? Cho nên, ta đã dẫm nát Meggie
dưới đế giày tham vọng; Meggie không còn là gì khác hơn là một hoa hồng
tan tác trên cỏ. Hương thơm của hoa hồng, mùi ghê tởm của Mary Carson.
Hoa hồng và tro của hoa hồng.
- Tro của hoa hồng, ông thì thầm một mình khi ngồi lên lưng ngựa. Chúng
ta đi thật xa, mùi thơm của hoa hồng xa cách như mặt trăng. Ngày mai, mùi
thơm hoa hồng sẽ ngập tràn cả nhà.
Ông thúc gót giày vào hông ngựa, cho nó đi chầm chậm trước Meggie trên
con đường chạy dọc theo bờ suối, lòng nghẹn ngào. Cho đến khi ông nghe
mùi hương thơm ngào ngạt của những cụm hồng mà ngày mai đây sẽ phủ
kín quan tài của bà Mary Carson, ông vẫn chưa ý thức biến cố sẽ xảy ra
thức thời. Ông sẽ phải ra đi ngay. Quá nhiều suy nghĩ, quá nhiều xúc cảm,
tất cả không thể dồn nén. Tòa thánh sẽ không để ông mốc meo ở cái xó
Gilly này một ngày nào sau khi được biết nội dung tờ di chúc khó có thể
tưởng tượng này. Ông sẽ bị gọi về Sydney tức thời. Ngay tức thời! Ông
trốn chạy một sự đau khổ; mà lần đầu tiên ông nếm trải. Không phải là
chuyện tình cờ nào đó trong tương lai lờ mờ; chuyện này sẽ xảy ra tức
khắc. Và ông đã mường tượng ra gương mặt của Pađy, sự ghê tởm hiện lên
ở con người tốt bụng ấy, cách né tránh để khỏi phải chạm mặt. Sau đó
không bao giờ ông được tiếp đãi nồng hậu tại Drogheda nữa và ông sẽ
không bao giờ gặp lại Meggie.
Nhưng rồi tiếng vó ngựa điên cuồng đã mang lại cho cha sự tự tin thường
có. Như thế còn hơn, như thế còn hơn, như thế còn hơn. Ngựa phi rồi ngựa
lại phi. Đúng vậy, như thế sẽ ít đau khổ hơn, thà ẩn mình trong sự an toàncủa một tu phòng nào đó của tòa tổng giám mục và mỗi lúc một ít đau khổ
hơn, và càng ít đau khổ hơn cho đến khi nỗi đau trong lòng tan biến. Nên
chọn như thế còn hơn là ở lại Gillabone để nhìn thấy Meggie biến thành
một con người khác, rồi đến một hôm phải làm phép cưới cho cô ta với
một người xa lạ. Hãy để Meggie ra ngoài tầm mắt, ra ngoài suy nghĩ.
... Nhưng vậy thì, ta đang làm gì cho Meggie giữa lúc này, phi ngựa qua
các lùm cây và bụi rậm, cách xa con suối? Ông không làm sao hiểu nổi lý
do, chỉ nghe trong tim mình nhói đau. Không phải cơn đau so sự phản bội -
Meggie không bao giờ làm chuyện đó mà chỉ là nỗi đau của sự chia ly.
- Cha ơi, cha ơi! Con không theo kịp cha! Đừng chạy nhanh quá, thưa cha!
Tiếng gọi của Meggie đứa cha trở về với bổn phận - trở về với thực tế.
Cũng như trong một phim quay chậm, ông kéo ngược hàm ngựa để cho nó
quay lại và ghìm lại tại chỗ cho đến khi con vật chịu đứng im, cha đứng đó
chờ nàng đuổi kịp? Tai họa là thế đó, Meggie đuổi kịp ta không? Hai
người dừng lại bên một đầm lớn nước sóng sôi sục mùi lưu huỳnh.
Cha Ralph ngồi trên một khúc gỗ ven bờ, Meggie cũng ngồi xuống theo
nhưng cách một khoảng. Cô ta ngồi nghiêng một bên cốt ý có thể quan sát
cha Ralph.
- Có chuyện gì đó, thưa cha?
Có cái gì đó hơi lạ, khi nghe một câu mình thường hỏi cô ta. Cha Ralph
mỉm cười.
- Cha đã bán con, Meggie nhỏ bé của cha. Bán với giá mười ba triệu bảng
Anh.
- Cha đã bán con?
- Một cách hình tượng. Điều đó không quan trọng lắm. Con hãy lại gần
đây. Rồi đây chúng ta sẽ không còn kịp để nói chuyện với nhau nữa.
- Ý cha muốn nói trong suốt thời gian chịu tang chứ gì. Con không thấy có
gì khác biệt giữa chuyện có tang và không có tang.
- Cha không nói đến chuyện đó, Meggie ạ.
- Hay là tại con đã lớn và người ta có thể dèm pha chuyện của chúng ta?- Cũng không đúng như thế đâu. Chẳng qua là cha sẽ ra đi.
Lại thế đấy, thêm một cú định mệnh ngàn cân giáng vào đời cô. Không kêu
la, không khóc, không nổi trận cuồng phong phẫn nộ mà chỉ hơi giật nẩy
người, giống như cái gánh nặng ngàn cân ấy đặt lệch trên vai khiến Meggie
mất thăng bằng. Meggie nén hơi thở, không để buông một tiếng thở dài.
- Khi nào thưa cha?
- Trong vài ngày.
- Cha ơi. Đó là điều khổ tâm cho con hơn cả sự ra đi của Frank.
- Còn với cha thì chưa bao giờ trong đời lại khổ tâm như thế. Cha không
có một niềm an ủi nào. Nhưng con, ít ra cũng còn có gia đình.
- Cha có Chúa.
- Con nói hay lắm, Meggia. Con đã thật sự trưởng thành.
Nhưng Meggie thuộc hạng phụ nữ luôn biết mình muốn gì, đeo đẳng bền bỉ
một mục đích cho nên cô trở lại một câu hỏi bỏ dở khi hai người phi ngựa
trên con đường dài 5 cây số. Ralph ra đi, thật là khó chịu đựng nổi sự vắng
mặt ấy, nhưng dù sao Meggie cũng cần đặt ra một câu hỏi.
- Thưa cha, lúc ở chuồng ngựa, cha có nói “ tro của hoa hồng”. Có phải ý
cha muốn nói về màu áo của con?
- Có một phần như thế. Nhưng có lẽ cha muốn nói theo một nghĩa khác.
- Nghĩa nào?
- Thật khó để cho con hiểu, Meggie bé nhỏ của ta. Đó là việc suy nghĩ về
một ý tưởng đang chết dần, không được quyền sinh sôi và cũng không được
quyền nẩy nở.
- Không có một thứ gì lại không có quyền được sinh ra, kể cả một ý tưởng.
- Nhưng con biết cha định nói gì chứ?
- Có lẽ con biết.
- Không phải tất cả những gì được sinh ra đều tốt, Meggie ạ.
- Không. Cái gì đã sinh ra, thì bản chất nó đã mang cả ý muốn được tồn tại.
- Con nói như một tu sĩ dòng Tên. Con bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Một tháng nữa thôi con đã mười bảy tuổi rồi, thưa cha.
- Con trải qua 17 năm khá vất vả. Nhưng thế đấy, những cực nhọc làm cho
con người ta trở nên già dặn. Trong những lúc rảnh trí con thường nghĩ gìMeggie?
- Ồ, con nghĩ đến Jimes, Patsy, đến các anh khác của con, đến cha mẹ, nghĩ
đến Hal và cô Mary. Đôi khi nghĩ đến chuyện làm sao để có con, con rất
thích như thế. Và con nghĩ đến mọi thứ trên đời mà đàn ông thường vẫn đề
cập. Rồi thời tiết, mưa, vườn rau, các con gà mái đẻ trứng, và nghĩ đến
ngày mai con sẽ làm gì.
- Thế con không nghĩ đến chuyện sẽ lấy chồng à?
- Không, nhưng con lại nghĩ rằng phải có một người chồng nếu con muốn
có con. Thật đáng tội nghiệp đứa con không có cha.
Tuy lòng quặn đau, cha Ralph vẫn mỉm cười. Meggie là hiện thân của một
sự pha trộn kỳ lạ giữa hiểu biết non nớt và ý thức đạo đức cao cả. Đột
nhiên, ông quay lại, nâng cằm Meggie và nhìn thẳng vào mắt cô gái. Làm
thế nào đây, phải làm gì đây!
- Con... Meggie chỉ lấp lửng.
Và im lặng.
- Con không nói rằng con đã nghĩ đến cha phải không? Nếu con không cảm
thấy điều đó là tội lỗi thì con đã nhắc tên cha cùng một lúc với ba của con.
Như vậy, tốt hơn là cha phải đi khỏi nơi đây, con thấy đúng không? Con đã
bắt đầu quá cái tuổi để nuôi dưỡng trong đầu một ý thích ngông cuồng kiểu
trẻ con mặc dù con rất già dặn so với một cô gái chưa đầy mười bảy tuổi.
Cha vui mừng khi thấy con biết gì về những thực tế của cuộc sống, nhưng
cha lại hiểu rằng những mối tình vẩn vơ trẻ con cũng gây ra lắm đau khổ.
Cha cũng từng trải qua như thế.
Meggie định nói gì nhưng lại thôi, hai con mắt long lanh như muốn khóc,
nhìn xuống và lắc đầu.
- Này Meggie, đây chỉ là một chặng đường, một cột mốc dẫn con đến cuộc
đời của một người đàn bà. Vài năm nữa con sẽ gặp người nào đó sau này
sẽ làm chồng con; con sẽ bận rộn vô cùng để tổ chức cuộc sống. Và khi ấy
nếu có nhớ đến cha thì cũng chỉ là nhớ đến như một người bạn trước đây
đã giúp mình trải qua cơn khủng hoảng của thời nhỏ. Điều con phải tránh là
ước mơ lãng mạn về cha để trở thành thói quen.
Cha không có quyền đối xử với con như một người chồng . Cha khôngbao giờ nhìn con trong hướng ấy. Meggie, con hiểu lời cha chứ? Khi cha
nói cha yêu con, không phải với tư cách một người đàn ông. Vì thế mà con
không được mơ mộng về cha. Cha sẽ đi và ít hy vọng có thời giờ trở về
Drogheda này, dù là một cuộc thăm viếng bình thường.
Hai vai của cô gái vẫn cụp xuống như thể cái sức nặng từ trên đè xuống
quá mức chịu đựng, nhưng Meggie vẫn ngẩng đầu lên nhìn thẳng mặt cha
Ralph.
- Con không mơ mộng nữa đâu, cha đừng lo. Con biết cha là linh mục.
- Con biết không, cha không hề nghĩ rằng mình đã chọn lầm sứ mệnh. Nó
đã thỏa mãn trong cha một nhu cầu mà không ai có thể làm thỏa mãn được,
kể cả con.
- Con biết. Con nhận ra điều đó khi chứng kiến cha hành lễ. Cha có quyền
lực. Con tin rằng lúc ấy cha cảm nhận hoàn toàn rằng mình hòa đồng với
Đức Chúa Trời.
- Ta nghe rõ từng hơi thở nín lại trong nhà thờ, Meggie ạ. Mỗi ngày, ta chết
đi và mỗi sáng ta sống lại khi làm lễ. Có phải chăng chính vì ta là một
đấng chăn chiên được Chúa lựa chọn hay vì ta cảm nhận được từng hơi thở
bị nén lại và ta đoán được uy quyền của ta đối với những linh hồn tồn tại?
- Điều ấy có gì là quan trọng đâu cha? Như thế đó và chỉ thế thôi?
- Rất có thể điều đó không quan trọng đối với con nhưng với ta thì khác.
Ta hoài nghi, hoài nghi.
Nhưng rồi Meggie trở lại điều cô tha thiết nhất.
- Con không biết thiếu cha con sẽ sống ra sao. Bắt đầu là Frank, bây giờ
đến cha. Với Hal thì khác, ít ra con biết rằng Hal đã chết và sẽ không bao
giờ trở lại. Nhưng cha và Frank đều còn sống! Con sẽ luôn tự hỏi hai
người thân thiết nhất đời con ra sao, đang làm gì, mọi chuyện có tốt đẹp cả
không, con có giúp gì cho họ không? Con cũng cần biết cha có còn sống
không nữa chứ.
- Cha cũng có những băn khoăn ấy Meggie ạ, và cha biết rằng Frank cũng
thế thôi.
- Ồ không đâu! Frank đã quên chúng ta. Rồi cha cũng thế thôi, cha sẽ quênchúng con.
- Cha mãi mãi không bao giờ quên con, Meggie, mãi mãi cho đến khi cha
còn sống trên cõi đời này. Và đó sẽ là một hình phạt cho cha khi được
sống lâu, thật lâu. Đã đến lúc chúng ta từ biệt nhau, Meggie. Chúng ta sẽ
không còn có dịp gặp riêng như thế này nữa.
- Nếu cha không phải là linh mục, cha có lấy con làm vợ không?
Nghe nhắc nhở lại tâm trạng cũ, cha Ralph xao xuyến lạ lùng:
- Đừng có lúc nào cũng gọi ta luôn miệng là cha! Meggie có thể gọi ta là
Ralph.
Lời nhắc nhở ấy của cha Ralph không là câu trả lời mà Meggie chờ đợi.
Mặc dù áp sát người vào Meggie, ông vẫn không có ý định ôm hôn.
Meggie ngước lên nhìn ông đang chìm dần trong bóng đêm dày đặc; trăng
đã khuất từ bao giờ. Ralph cảm giác hai đầu nhọn nhỏ nhắn trên ngực
Meggie chạm nhẹ vào người ông; một thứ cảm giác kỳ lạ, bối rối. Càng bối
rối hơn nữa là Meggie đã áp sát người vào Ralph một cách buông thả của
người vợ hằng đêm âu yếm chồng. Rất tự nhiên, hai tay Meggie bấm vào
cổ Ralph và ôm Ralph siết mạnh.
Chưa bao giờ cha Ralph đặt lên môi phụ nữ một cái hôn yêu đương nào,
ngay cả lúc này đây cũng không muốn như thế. Một chạm nhẹ dịu dàng trên
má, một cái siết vội vã giống như những điều mà Meggie thường chờ đợi ở
cha ruột mình trước khi ông đi xa. Meggie vừa nhạy cảm lại vừa kiêu hãnh.
Cha Ralph vô tình xúc phạm đến cô khi đón nhận một cách lạnh lùng những
ước mơ sâu kín nhất mà cô hằng ôm ấp. Đúng thế, cũng như cha Ralph,
Meggie mong chấm dứt ngay cái giây phút từ biệt này. Liệu rằng mình có
được chút an ủi nào không khi biết được cha Ralph còn chịu nhiều đau khổ
hơn trong phút giây này? Khi ông nghiêng đầu xuống hôn lên má Meggie,
cô đã nhón chân lên và phải chăng là do tình cờ, môi của Meggie chạm qua
môi của Ralph. Đầu cha bật ngược ra sau như vừa nếm phải nọc độc của
con nhện; nhưng rồi nhớ sực lại rằng mình sẽ mất Meggie vĩnh viễn, cha
Ralph lại cúi đầu sát Meggie, định nói điều gì đó với đôi môi dễ thương
và mím chặt ấy. Còn Meggie cố gắng để trả lời, đôi môi hé mở. Cái cơ thể
trẻ trung ấy bỗng nhiên như mất đi tất cả những xương thịt, biến thành mộtthứ chất lỏng, một phần của những bóng đêm ấm áp và tan biến vào đó.
Một tay Ralph choàng qua thân người Meggie, bàn tay còn lại, Ralph vuốt
ve mái tóc và gáy, giữ cho gương mặt cô ngước nhìn lên, như sợ rằng
Meggie có thể thoát đi mất vào ngay giây phút ngắn ngủi này trước khi ông
kịp khắc ghi vào tâm khảm sự hiện diện kỳ ảo của Meggie.
Meggie đó nhưng không phải là Meggie, quá xa lạ để mà quen thuộc vì
rằng Meggie của cha Ralph chưa là phụ nữ, chưa mang đến cái cảm giác
của người phụ nữ và không bao giờ là một phụ nữ đối với ông. Cũng như
không thể nào ông là đàn ông đối với cô.
Ý nghĩ đã chiến thắng những giác quan đang bối rối. Cha Ralph gỡ hai tay
đang choàng cổ ông, đẩy nhẹ Meggie ra và tìm cách nhìn vào đôi mắt của
cô trong bóng đêm. Nhưng Meggie cúi mặt xuống, từ chối nhìn cha Ralph.
- Đã đến lúc chúng mình phải rời khỏi đây.
Không một lời, Meggie bước đến gần con ngựa, leo lên lưng ngồi chờ;
thường khi thì cha Ralph ngồi sẵn để chờ Meggie.
Đúng như cha tiên đoán, tòa nhà ở Drogheda ngập tràn hoa hồng. Các
vườn hồng chung quanh đều tập trung hoa về đây. Cha Ralph đã làm lễ
Misa với những lời lẽ mà người này thì cho rằng ông đã mỉa mai, người
khác thì cho rằng giọng nói ấy chứa đựng đau xót chân thành.
Sau đó chiếc quan tài được đặt lên chiếc xe đẩy thấp. Không ai chịu đưa
vai vào khiêng thi hài của bà Mary Carson. Và cũng không có ai tiếc
thương khi nhìn thấy hai cánh cửa hầm mộ khép kín lại. Thế là mọi người
có thể hít thở tự nhiên.
Trong khi khách khứa tập trung ở gian phòng lớn để ăn lót dạ hay trò
chuyện, ông chưởng khế Harry Gough mời Pađy và gia đình, cha Ralph, bà
Smith và hai chị giúp việc đến phòng khách.
Vốn người nhân từ tốt bụng, Pađy đã khóc chị, còn bà Fiona, vợ Pađy, thì
nét mặt vẫn không thay đổi, như thể kkhông chú ý đến chuyện gì đã xảy ra.
- Pađy, tôi đề nghị ông phản đối tờ di chúc - Harry Gough tuyên bố sau khi
đọc trọn văn bản bằng một giọng khô khan và bất mãn.
- Đúng là một con mụ già thối tha và quỷ quái! Bà Smith buột miệng kêu
lên.Mặc dù bà thương cha Ralph nhưng tình cảm của bà Smith vẫn nghiêng về
phía gia đình họ Cleary. Dòng họ này đã mang đến cho đời bà niềm vui
rộn rã.
Pađy lắc đầu.
- Không, ông Harry! Tôi không làm gì cả. Tài sản này là của chị tôi và chị
tôi có toàn quyền quyết định theo ý bà. Nếu chị tôi muốn để lại tất cả cho
Nhà thờ thì chúng tôi phải cúi đầu trước ý muốn của bà. Tôi không thể nói
dối rằng tôi hoàn toàn không hề thất vọng nhưng tôi chỉ là một người chất
phác, cho nên như vậy lại tốt hơn. Tôi thành thật nói rằng tôi không ham
nhận trách nhiệm nặng nề cai quản một điền trang rộng bao la như
Drogheda.
- Ông không hiểu gì hết Pađy ạ - Harry Gough nói lại bằng cách nhấn mạnh
từng lời một như nói với trẻ con - Không phải chỉ có Drogheda, điền trang
chỉ là một phần rất nhỏ trong số tài sản mà chị của ông đã để lại. Bà ấy là
cổ đông có quyền kiểm soát cả trăm công ty loại lớn; bà còn có những nhà
máy đúc thép, những mỏ vàng, hãng Michar Limited mà trụ sở là một tòa
nhà chín tầng ở Sydney. Bà chị ông là người giàu có nhất ở Úc! Thật kỳ lạ,
chính bà đã nhờ tôi liên hệ với các giám đốc Michar Limited ở Sydney chỉ
mới cách đây không đầy một tháng với mục đích xem lại tiền bạc của bà
hiện có là bao nhiêu. Vào lúc bà qua đời, tài sản của bà lên tới mười ba
triệu bảng Anh.
- Mười ba triệu bảng! Pađy lặp lại con số với giọng xa xôi như khi người
ta nhắc tới cái khoảng cách từ mặt đất tới mặt trời, một sự đánh giá không
tài nào hình dung nổi. Thế đấy, coi như vấn đề đã giải quyết, Harry. Tôi
dứt khoát không muốn đảm trách những công việc quá to lớn ấy.
- Không có công việc to lớn nào phải đảm trách, Pađy! Ông không hiểu à?
Với những tài sản như thế sẽ tự quản lý lấy! Ông hoàn toàn khỏi phải quan
tâm tới, có hàng trăm nhân viên để lo việc này. Pađy, ông hãy kiện lại tờ di
chúc này, tôi tha thiết đề nghị với ông như vậy. Tôi sẽ giới thiệu với ông
những luật sư giỏi nhất nước và tôi sẽ hỗ trợ đến cùng, dù phải đến đến tận
Hội đồng cơ mật.Pađy bỗng nhớ lại rằng gia đình ông cũng có quyền phát biểu trong việc
này, ông quay sang Bob và Jack, đang há hốc miệng, ngồi cạnh nhau trên
một chiếc ghế dài cẩm thạch Ý.
- Này các con, các con nghĩ thế nào? Các con có muốn tìm cách túm lấy
cái món béo bở... mười ba triệu bảng của cô Mary không? Nếu các con
muốn, ba sẽ kiện phản đối di chúc này, còn không thì ba sẽ rút lui.
- Nhưng dù thế nào thì chúng ta vẫn được quyền tiếp tục sống ở Drogheda,
trong di chúc cũng có nói rõ điều đó phải không ba? - Bob hỏi.
- Không ai có quyền đuổi các cậu ra khỏi Drogheda cho đến khi nào ba
các cậu còn một người con người cháu ở đây, Harry giải thích.
- Chúng ta sẽ ở đây, trong ngôi nhà lớn với bà Smith và Minnie, Cat.
Những người này phục vụ chúng ta và chúng ta lại nhận một số tiền lương
cao - Pađy thêm vào, quá sung sướng và hài lòng về sự may mắn của mình
và quên đi nỗi bất hạnh.
- Vậy thì còn đòi hỏi gì hơn nữa? Bob hỏi em mình. Em có đồng ý không?
- Với em, như thế là vừa. Jack trả lời ngắn gọn.
Cha Ralph lòng dạ bồn chồn. Không kịp thay bộ đồ làm lễ, ông cũng không
kịp ngồi; không khác một pháp sư đẹp và hắc ám; ông đứng trong bóng tối
ở cuối phòng, hai tay đút vào áo choàng màu đen; nét mặt sững sờ. Trong
tận đáy sâu của tôi mắt xanh xa xôi, đang dồn sự phiền muộn và nỗi kinh
hoàng. Sự trừng phạt mà ông chờ đợi một cách giận dữ và khinh bỉ, cuối
cùng đã không xảy ra. Pađy đã đặt tất cả trên một mâm bạc, đầy thiện chí,
dâng tặng ông lời cảm ơn ông đã lo giùm gánh nặng cho dòng họ Cleary.
- Còn bà Fiona và Meggie thì sao? Linh mục xen vào, lời nói khô khan
hướng về phía Pađỵ Phải chăng ông không coi trọng lắm phụ nữ trong gia
đình nên không hỏi ý kiến của những người ấy?
- Vậy Fiona, em có ý kiến gì? Pađy lo lắng hỏi.
- Em tuân theo ý kiến của anh, Pađy. Phần em thì sao cũng được.
- Con không cần 13 triệu bảng của bà ta, Meggie trả lời, mắt nhìn chăm
chăm cha Ralph.
- Như thế, coi như kết thúc vụ này, Harry - Pađy quay lại nói với viên
chưởng khế - Chúng tôi không muốn kiện chống lại tờ di chúc. Tòa thánhcứ thừa hưởng tiền của bà Marry, như thế là rất tốt.
Harry đập hai tay vào nhau.
- Trời đất ơi, tôi đau tận ruột gan khi nhìn thấy ông bị trấn lột.
- Tôi cảm ơn ngôi sao bổn mạng của tôi, Pađy nhỏ nhẹ nói. Nếu không có
chị Mary của tôi, thì bây giờ tôi còn phải làm thuê làm mướn cho người
này, người nọ để sống ở Tân Tây Lan.
Trước khi rời phòng khách, Pađy gặp cha Ralph, bắt tay linh mục trước
bao nhiêu người chăm chú theo dõi từ nãy giờ.
- Thưa cha, xin cha đừng nghĩ rằng chúng tôi có ý nghĩ bất bình gì đối với
cha. Suốt cả chiều dài của cuộc đời bà, Mary không hề để cho một ai ảnh
hưởng mình, dù người đó là linh mục, em hay chồng. Cha hãy tin tôi và cha
cũng rất tốt đối với chúng tôi. Chúng tôi không bao giờ quên.
Mặc cảm tội lỗi. Gánh nặng. Suýt chút nữa cha Ralph quên nằm bàn tay
sần sùi mà Pađy đã chìa ra nhưng bộ óc của cha đã kịp giành lại phần
thắng; cha Ralph bắt tay và siết thật mạnh, mỉm cười khó nhọc.
- Cám ơn Pađy. Hãy tin chắc rằng tôi sẽ theo dõi sát không để cho gia đình
ông thiếu hụt bất cứ thứ gì.
Cha Ralph đi ngay trong tuần lễ ấy và không hề trở lại thăm Drogheda.
Ông dành vài ngày để sắp xếp một vài thứ lặt vặt và đi thăm các gia đình
công giáo trong vùng, ngoại trừ Drogheda.
Linh mục Watkin Thomas từ xứ Wales tới, thay thế đảm trách giáo xứ
Gillanbone, còn cha Ralph de Bricassart trở thành thư ký riêng của tổng
giám mục Gluny Dark. Nhưng công việc của cha rất ít; cha có hai người
trợ lý. Cha được giao nhiệm vụ xem lại sản nghiệp của bà Mary Carson
gồm những gì và giá trị thật sự bao nhiêu vì lợi ích của Tòa thánh.
__________________
Chương 14
Năm mới đã đến, cùng lúc với đêm khiêu vũ Saint Sylvestre do gia đình
Angus Mac Queen tổ chức hàng năm ở Rudna Hinish, trong khi đó thì gia
đình Cleary vẫn chưa chuyển qua ở tòa nhà lớn vì việc sắp xếp theo ý của
Fiona còn kéo dài.Cha Ralph có gởi cho Pađy một ngân phiếu năm ngàn bảng từ đầu tháng
12, để chi dùng ban đầu theo cách giải thích trong thư của ông. Pađy đưa
thư cho Fiona xem với thái độ kinh ngạc.
- Trời ơi, làm việc suốt đời, tôi cũng không làm sao đào ra được một số
tiền như thế này?
- Với số tiền này mình làm gì? Fiona hỏi sau khi liếc qua vào tấm ngân
phiếu rồi đôi mắt long lanh nhìn chồng. Thế là chúng ta đã có tiền? Anh có
thấy không? Ồ, em không cần số tiền 13 triệu bảng của cô Mary... một số
tiền như thế không thật. Nhưng còn tiền này, thì thật đó. Chúng ta sẽ làm gì
bây giờ?
- Chi xài, Pađy trả lời đơn giản. Mua quần áo mới cho con cái... Còn em?
Có lẽ em thích mua sắm đồ đạc cho ngôi nhà lớn phải không? Về phần anh
thì chẳng thấy cần thứ gì cả.
- Ngốc thật. Chính em cũng không biết chi xài chuyện gì (bà đứng lên, rời
bàn ăn và gọi Meggie với một giọng quyền uy). Con đến đây! Chúng ta qua
nhà lớn xem ở đó cần gì.
Đã ba tuần trôi qua kể từ ngày sóng gió tiếp theo cái chết của Mary
Carson, thế mà chưa có một thành viên nào của gia đình Cleary đặt chân
đến tòa nhà lớn. Nhưng bây giờ cuộc viếng thăm của Fiona đã bù lại thời
gian họ gớm ghiếc xa lánh ngôi nhà này.
Bà đi từ phòng này sang phòng khác, phía sau có cả một đoàn tùy tùng gồm
Meggie, và Smith, Cat và Minnie. Bà làm cho con gái bà ngạc nhiên về sự
sống động mà từ lâu không thấy ở bà. Bà luôn luôn nói một mình, khi thì
chê thứ này đáng tởm, khi thì chê thứ kia quá xấu xí, phải chăng chị Mary
bị bệnh mà mất hay chị ấy chẳng có chút óc thẩm mỹ nào cả!
Bàn viết của Mary Carson, theo kiểu xấu xí thời Victoria, bên trên có đặt
máy điện thoại. Fiona đến gần, nhìn màu gỗ buồn hiu với vẻ chê bai.
- Bàn viết của tôi đặt vào đây thì hợp quá, bà nói. Tôi bắt đầu sửa sang,
sắp xếp lại từ căn phòng này. Chúng ta chỉ dọn nhà sang khi mọi việc xong
xuôi. Chưa xong thì không dọn. Như thế chúng ta bố trí được một nơi có
thể họp mặt nhau mà không thấy buồn tẻ - vừa nói bà vừa ngồi xuống coi
lại chiếc điện thoại.Sau khi sửa điện thoại xong, Fiona ra lệnh cho ba người phụ nữ tháo gỡ
ngay các bức màn nhung màu nâu và ném tất cả và một chỗ dành riêng cho
các thứ không còn dùng nữa. Và Fiona đốt cùng với rác rến.
- Chúng ta không cần những thứ này, bà khẳng định. Và tôi cũng không
muốn cho người nghèo ở Gillanbone dùng những thứ này.
- Đúng thế, mẹ, Meggie tán đồng nhưng hơi sửng sốt.
- Chúng ta không rèm màn, Fiona nói, không băn khoăn chút nào khi làm
trái lại các qui tắc trang hoàng trong nhà của thời đại này. Hành lang rất
rộng, khó cho ánh nắng chiếu thẳng vào bên trong nhà, vậy thì rèm màn có
ích gì? Mẹ muốn để trống cho mọi người nhìn thấy được phòng khách.
Vào tuần lễ thứ hai của tháng giêng, tất cả đã hoàn chỉnh, tiếng đồn lan
rộng ra qua liên lạc của các máy điện thoại địa phương. Bà Cleary Fiona
đã biến phòng khách của Drogheda thành một cung điện. Không ai nghi ngờ
sự thành công của Fionạ
Ba ngày trước khi dọn sang nhà lớn khi mặt trời chưa lên, mấy con gà
trống đã chào đón một ngày mới bằng những tiếng gáy rộn rã vui tươi.
- Đồ tốt mã nhưng chẳng làm ăn ra gì, Fiona cáu gắt. Mẹ không biết chúng
nó tự hào về cái gì. Không có lấy một trứng cho buổi ăn sáng, trong khi
bao nhiêu đàn ông đang tập trung ở nhà để chờ dọn đồ. Meggie, con phải
ra chuồng gà xem thử, mẹ đang quá bận rộn. Mẹ tự hỏi ba mua dài hạn tất
cả các loại báo này làm gì; không ai có thời giờ để đọc. Nó cao lên nhanh
quá mẹ không đốt kịp. Con xem, tờ này xuất bản vào cái ngày chúng ta mới
đến đây! Nhưng ít ra những tờ báo ấy cũng có công dụng gói bọc chén dĩa.
Thật là dễ chịu khi thấy mẹ vui vẻ, Meggie nghĩ thầm, nhanh nhẹn bước
xuống các bật thang.
Chuồng gà rộng thênh thang, có bốn gà trống và hơn bốn chục gà mái. Khi
Meggie đẩy cửa bước vào trong, mấy con gà mái nhao nhao lên, tưởng
rằng Meggie đến cho ăn.
- Thật tình chúng bay chẳng ra làm sao cả. Giọng của Meggie nghiêm nghị
trong khi duyệt qua các máng dùng để hứng trứng! Không đủ cho ăn buổi
sáng chứ đừng nói tới chuyện làm bánh! Thế này nhé, tôi cần báo trước
cho các cô cậu biết để khỏi than van, nếu các cô cậu không nhanh chóngvào nề nếp, các cô cậu sẽ kết thúc tất cả trong... nồi. Tất cả không trừ một
đứa nào. Lời cảnh cáo này có giá trị cho các mày râu cũng như cho các
bậc phu nhân. Này các ngài, đừng có xòe đuôi ưỡn ngực như thể chuyện
này không dính dấp đến các ngài!
Trứng gà được đặt kỹ lưỡng trong tạp dề, Meggie trở lại bếp vừa đi vừa
hát nho nhỏ. Bước vào nhà Meggie bắt gặp mẹ đang ngồi trên chiếc ghế
bành của cha, mắt nhìn chăm chú vào tờ tuần báo Smith'' s Weekly, mặt tái
xanh, môi run run. Meggie nghe tiếng nói các anh cùng cha mình bên kia
vách và tiếng cười của Jims và Patsy vừa được 6 tuổi. Hai đứa em không
được thức dậy trước khi người lớn đi làm.
- Có chuyện gì thế, thưa mẹ? - Meggie hỏi. Fiona không trả lời; và vẫn bất
động, những giọt mồ hôi đọng lại trên môi dưới, đôi mắt sững sờ trong đau
đớn như thể bà đang gom hết sức lực mình để ngăn lại tiếng thét phát ra từ
trong lòng.
- Ba ơi! Ba ơi! Meggie gọi to, giọng hốt hoảng.
Tiếng gọi khiếp đảm của Meggie kéo Pađy khỏi phòng, giữa lúc ông vừa
mặc chiếc áo gilê. Bob, Jack, Hughie và Stuart chạy theo cha. Không nói
lời nào, Megie chỉ mẹ.
Xúc động đến tắc nghẽn cổ họng vì âu lo, Pađy cúi xuống sát vợ mình, nắm
lấy cổ tay mềm nhũn.
- Có chuyện gì thế, em thương yêu? ông hỏi.
Giọng nói thật dịu dàng của Pađy gần như hoàn toàn xa lạ đối với các con
ông, đó là giọng nói mà chúng biết cha mẹ chúng vẫn dùng đến khi không
có mặt con cái.
Hình như giọng nói đặc biệt ấy, đã kéo Fiona ra khỏi vực thẳm mà bà đang
chới với; đôi mắt to, màu nâu nhìn lên gương mặt hiền hậu của chồng đầy
âu lo, và mỏi mệt.
- Đấy, bà vừa nói vừa chỉ tờ báo nằm ở phía cuối trang.
Stuart đến sau lưng mẹ, dịu dàng đặt bàn tay lên vai; trước khi đọc bài
báo, Pađy nhìn vào mặt con trai ông rồi vợ ông; và ra vẻ bằng lòng. Ông
không có thái độ ghen tức như đối với Frank trước đây. Tình yêu mà cả hai
dành cho Fiona đã làm hai cha con gần gũi nhau hơn.Pađy đọc bài báo to lên, giọng chầm chậm càng lúc càng đượm buồn. Tựa
bài báo:
"Một võ sĩ bị kết án chung thân.
Francis Amstrong Cleary, 26 tuổi, võ sĩ nhà nghề, hôm nay đã bị tòa án ở
Goulburn kết tội cố sát Ronald Cummings, thợ trồng trọt 32 tuổi, vụ án xảy
ra hồi tháng bảy vừa qua. Bồi thẩm đoàn đã đưa ra kết quả chỉ sau mười
phút hợp riêng, đề nghị áp dụng hình phạt nặng nhất. Theo lời phán xử của
quan tòa Fitz Hugh Cunneally thì đây là một trường hợp hiển nhiên và
không còn nghi ngờ. Cummings và Cleary gây gổ với nhau dữ dội trong
quán rượu của khách sạn Harbor ngày 23 tháng 7. Cũng vào chiều hôm đó,
trung sĩ Tom Bearsmore, cảnh sát ở Goulburn, có hai nhân viên đi theo, đã
đến đấy, theo yêu cầu của chủ nhân khách sạn này, ông James Ogilvie.
Trong một ngõ hẻm bẩn thỉu sau khách sạn, các viên cảnh sát đã bắt gặp
Cleary đang đá túi bụi vào đầu Cummings, anh này đang nằm dài dưới đất,
bất tỉnh. Hai nắm tay của Cleary đầy máu, có cả những chùm tóc rút ra từ
trên đầu của Cummings. Trong lúc bị bắt, Cleary say mèm nhưng vẫn còn
sáng suốt. Lúc đầu hắn chỉ bị truy tố tội đánh người và gây thương tích
nhưng sau đó hắn phải trả lời về tội cố sát vì Cummings bị chấn thương sọ
não đã chết ở bệnh viện Goulburn ngày hôm sau.
Luật sư Arthur Whyte, biện hộ cho bị can, cho rằng thân chủ của mình vô
tội bằng cách lập luận hắn bị bênh tâm thần, nhưng bốn giám định khoa tâm
thần, được chỉ định tuyên bố một cách dứt khoát, chiếu theo luật M''
Naghten, Cleary không thể coi như không có trách nhiệm đối với hành vi
của mình. Khi ngỏ lời với các vị bồi thẩm, quan tòa Fitz Cunneally tuyên
bố vấn đề không phải là xác định bị can có tội hay vô tội vì rằng sự phán
xét không thể khác hơn là có tội, nhưng ông yêu cầu các bồi thẩm suy nghĩ
trước khi kết luận nên khoan hồng hay nên nghiêm khắc vì rằng tất cả tùy
thuộc ở ý kiến của các vị. Khi kết án Cleary, quan tòa Fitz Cunneally gọi
hành động của bị can là dã man mất tính người nhưng lại cho rằng hànhđộng ấy không có dự tính trước và đã phạm trong tình trạng say rượu nên
tránh được án tử hình. ông cho rằng hai quả đấm của Cleary cũng là những
vũ khí nguy hiểm không khác súng hay dao. Cleary bị kết án chung thân khổ
sai, chịu hành phạt tại nhà tù Goulburn - nơi đây được xây để giam giữ
những loại tù bản chất đặc biệt hung dữ. Khi tòa hỏi bị can có điều gì
muốn nói không, Cleary đáp: “ Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi hay biết gì
sự việc này.”
Pađy nhìn lên đầu trang để xem ngày tháng tờ báo: ngày 6 tháng 12 năm
1925.
- Tờ báo này đã ba năm mới đến đây, ông thì thầm, người rụng rời.
Không ai đáp lại một lời hay có bất cứ cử chỉ nào bởi vì không biết phải
làm gì; phía trước nhà vọng vào tiếng cười hồn nhiên của cặp song sinh,
càng lúc ồn ào vì cả hai nói chuyện với nhau rộn rã.
- Tôi... chỉ yêu cầu... đừng cho mẹ tôi hay biết gì Fiona thều thào giọng uể
oải. Và người ta đã tôn trọng một cách triệt để ý nguyện của nó! Trời ơi!
Frank rất đáng thương của tôi!
Pađy lau nước mắt bằng tay áo, rồi ngồi xổm bên cạnh vợ, vuốt nhẹ đầu
gối của bà - Fiona thương yêu của anh, hãy sửa soạn quần áo. Chúng ta sẽ
đi thăm Frank.
Bà định đứng lên nhưng nửa chừng bật ngửa ra sau lưng ghế. Trên gương
mặt nhợt nhạt đầy mỏi mệt, hai mắt lấp lánh và nhìn thẳng như người đã
chết, hai mí mắt sưng húp, con ngươi vàng bệch.
- Em không thể đến đó! Bà nói.
Trong giọng nói của bà không có vẻ gì thất vọng nhưng ai cũng đều cảm
thấy nỗi lo âu đang giày xéo bà.
- Nếu nó gặp lại em, nó sẽ chết ngay - sau một lúc im lặng, bà lại nói.
Pađy ơi! Nó sẽ chết ngay nếu gặp em. Em quá biết lòng kiêu hãnh, tham
vọng và sự quyết tâm của nó muốn trở thành một người có tên tuổi trong xã
hội. Cứ để cho nó chịu đựng một mình nỗi đau khổ vì đó là ý muốn của nó.
Anh có đọc thấy những lời của nó chưa: Tôi chỉ yêu cầu đừng cho mẹ tôi
hay biết gì hết. Chúng ta cần gíup nó để giữ trọn vẹn bí mật của nó. Có gìtốt lành đâu cho cuộc gặp mặt như thế về phía nó và cả phía chúng ta.
Pađy tiếp tục khóc, không phải vì Frank; mà vì rằng cái chất sống đã biến
đi trên gương mặt của Fiona, và trong đôi mắt không còn sinh khí của bà.
Thằng con trai ấy như một con chim đáng thương; suốt đời gặp tai họa,
những tai họa đã làm Fiona không thể cởi mở được với chồng. Mỗi khi
bóng dáng hạnh phúc ló dạng thì Frank xuất hiện, gieo sự đau khổ cho
Pađy. Nhưng tình yêu mà Pađy dành cho Fiona sâu đậm và không gì lay
chuyển được, không khác tình yêu mà Fiona dành cho Frank. Ông không thể
phiền trách gì ở chàng thanh niên, từ chuyện xảy ra vào cái đêm tại nhà xứ.
Ông nói:
- Thôi vậy. Nếu em thấy rằng tốt hơn là đừng gặp Frank thì chúng ta không
đi. Tuy nhiên anh rất muốn biết con ra sao và nhất là chúng ta có giúp ích
được gì cho nó không. Theo em, anh có nên viết thư cho cha Ralph để nhờ
cha chăm sóc Frank?
Đôi mắt còn đờ đẫn nhưng trên gương mặt Fiona thoáng có một chút màu
hồng.
- Đúng thế Pađy ạ, anh viết thư đi. Nhưng anh nhớ nói với cha thế nào để
cha không cho Frank hay là chúng ta đã biết sự việc. Frank sẽ dễ chịu hơn
nếu nó tin chắc rằng cả nhà không ai hay biết gì.
Vài ngày sau, Fiona tìm lại được gần trọn vẹn phong độ và chú ý lại trong
việc trang hoàng ngôi nhà. Nhưng sự im lặng lại xâm chiếm, bà tiếp tục
lạnh lùng tuy có bớt đi nét khắc khổ.
Cuộc sống trong ngôi nhà lớn thay đổi rất nhiều. Đầu tiên ai cũng thấy hơi
khác thường khi mỗi người ở một phòng riêng, còn phụ nữ - Fiona và
Meggie - thì từ nay không còn lo công việc nội trợ. Trong cũng như ngoài,
đã có Minnie, Cat và bà Smith lo tất cả, từ việc giặt ủi quần áo cho đến
bếp núc, lau dọn; những người này kinh hoảng lên khi thấy có người tỏ ý
định tiếp tay họ.
Pađy đã có tin tức của cha Ralph.
Thu nhập của bà Mary hằng năm lên đến khoảng bốn triệu bảng Anh, nhờ
vào Michar Limited là một công ty tư nhân mà đa số các dự án đầu tư đều
nhắm vào thép, trang bị tàu bè và các mỏ. Cha Ralph viết:Số tiền mà tôi gởi đến ông chỉ là một giọt nước biển và không đến mười
phần trăm thu thập hằng năm của riêng Drogheda. Ông đừng lo về những
năm khó khăn. Các tài khoản của Drogheda rất là lạc quan, tôi có thể trả
lương cho ông suốt đời chỉ cần dựa vào thu nhập của điền trang. Do đó
tiền mà ông nhận là của ông và không thâm và một đồng nào của Michar
Limited. Tiền ấy từ nguồn của điền trang chớ không phải của công ty. Tôi
chỉ yêu cầu giữ sao cho sổ sách luôn kịp thời và chặt chẽ dự phòng có một
cuộc kiểm tra tới đây.
Chỉ sau khi nhận lá thư trên, Pađy tập hợp cả gia đình vào một buổi tối tại
phòng khách lộng lẫy. Ông chủ trì, trên mũi ông có cặp kiếng gọng thép,
ông ngồi trong chiếc ghế bành lớn màu kem, hai chân êm ái đặt trên một
ghế dài cùng màu, còn cái ống vố đặt trên gạt tàn thủy tinh Waterford.
- Thật là dễ chịu làm sao, ông nói với nụ cười cùng lúc đảo mắt nhìn chung
quanh. Ba nghĩ chúng ta nên biểu quyết hoan hô sự thành công của mẹ. Các
con nghĩ sao?
Đề nghị của Pađy được hưởng ứng bằng những tiếng thì thầm đồng tình của
các con trai; Fiona nghiêng đầu sang bên, trở mình trên chiếc ghế bành
trước kia của Mary Carson, bây giờ được bọc lại vải lụa lóng lánh màu
kem. Còn Meggie thì thích nằm thu mình như con mèo trên cái ghế dài.
- Cha Ralph đã làm rõ tất cả, và tỏ ra rất rộng rãi, Pađy tiếp tục nói. Ông
ta đã gởi vào ngân hàng bảy ngàn bảng đứng tên ba và mở các sổ tiết kiệm
hai ngàn bảng cho mỗi đứa trong các con. Với tư cách giám đốc điền trang,
ba lãnh bốn ngàn bảng mỗi năm, Bob lãnh ba ngàn bảng với chức vụ phó
giám đốc. Tất cả các con trai của ba đến tuổi lao động, Jack, Hughie,
Stuart đều lãnh hai ngàn mỗi năm, riêng Jims và Patsy được một ngàn cho
đến khi nào hai đứa đủ tuổi đi làm. Sau này, điền trang sẽ bảo đảm cho
Jims và Patsy mỗi đứa một thu nhập ngang bằng với các thành viên Cleary
khác làm việc tại Drogheda, dù cho hai đứa có chọn một nghề nào khác đi
nữa. Khi Jims và Patsy được 12 tuổi, cả hai sẽ được gởi học nội trú tại
trung học Riverview ở Sydney, mọi chi phí do điền trang chịu.“Mẹ nhận hai ngàn bảng hàng năm để chi dụng riêng, Meggie cũng thế.
Tiền dùng để bảo quản tòa nhà là năm ngàn bảng, mặc dầu chính ba phải tự
hỏi tại sao cha Ralph tưởng tượng ra một khoản tiền nhiều thế cho công
việc này”.
“Quyết định đầu tiên của ba trong nhiệm vụ mới giám đốc là thuê thêm ít
nhất sáu người chăn nuôi để việc quản lý Drogheda có nề nếp hơn; cơ ngơi
của Drogheda quá rộng, không thể cáng đáng với một nhúm người?”.
Đây là chi tính gián tiếp duy nhất của Pađy liên quan đến vấn đề quản lý
của chị ông.
Fiona và Meggie tập lái chiếc xe hơi mới hiệu Rolls Royce đã được giao
trước một tuần lễ Mary Carson qua đời. Meggie tập điều khiển các con
chó trong khi Fiona lo sổ sách.
Đúng ra Meggie rất hạnh phúc nếu không phải chịu đựng sự vắng mặt dai
dẳng của cha Ralph. Cuộc sống này phù hợp với mong ước từ lâu của cô:
có mặt ở những khu đất rào nuôi cừu, cỡi ngựa, làm công việc của người
chăn nuôi. Tuy nhiên sự thiếu vắng cha Ralph vẫn gây go cho Meggie một
nỗi đau buồn âm ỉ, kỷ niệm của cái hôn được lồng vào những giấc mơ âu
yếm mà đã sống trở lại trong tưởng tượng của Meggie cả nghìn lần. Nhưng
ký ức không thể thay thế thực tế, Meggie có cố gắng thế nào, cảm giác thật
sự cũng không tìm lại được mà chỉ còn là cái bóng mờ, như một áng mây
nhẹ và buồn.
Khi cha Ralph viết thư báo cho gia đình biết tin về Frank, cũng là lúc ông
đã cắt đứt hy vọng cuối cùng mà Meggie nuôi dưỡng lâu nay là cha Ralph
sẽ mượn cớ chuyện này để đích thân đến Drogheda. Sự tường thuật của ông
về cuộc hành trình đến nhà tù Goulburn để thăm Frank được ghi lại tỉ mỉ
nhưng không để lộ sự đau xót đã gợi ra, không gây nghi ngờ về tình trạng
tâm thần ngày càng sa sút của Frank. Ông tìm cách, nhưng không thành
công, chuyển Frank qua bệnh viện thần kinh Morisset nơi người ta giam
những tội nhân giết người mắc bệnh tâm thần. Ông chỉ phác họa chân dung
lý tưởng của một Frank chịu đựng, ngoan ngoãn chấp nhận trả giá các lỗi
lầm của mình với xã hội và ở một đoạn được gạch đậm dưới hàng chữ, ông
cam đoan là Frank không chút nghi ngờ khi được ông cho biết là gia đìnhhoàn toàn không hay chuyện của Frank. Ông bảo rằng tình cờ mà ông biết
được tên Frank nhờ đọc một bài báo ở Sydney. Sau đó thì Frank dịu lại -
cha Ralph viết - và các sự kiện tạm dừng ở đó.
Pađy có ý định bán con ngựa hồng của cha Ralph trước kia. Nhưng Meggie
không đồng ý.
- Ba ơi, con van xin ba - đừng bán. Con có thể cỡi con ngựa hồng mà! Ba
hãy tưởng tượng xem mình sẽ ăn nói ra sao, nếu sau bao nhiêu việc cư xử
tốt của cha Ralph, một hôm cha trở về thăm nơi đây và biết được chúng ta
đã bán con ngựa của cha rồi.
Pađy nhìn con gái chăm chăm, có vẻ suy nghĩ:
- Meggie, ba không tin là cha Ralph sẽ trở về đây.
- Cha Ralph có thể về đây chứ! Làm sao biết trước được.
Đôi mắt của Meggie sao mà giống mẹ thế, Pađy không nỡ nói gì thêm; ông
không muốn gây thêm đau khổ cho đứa con gái đáng thương của mình.
- Thôi thì ba đồng ý vậy, Meggie, chúng ta sẽ giữ lại con ngựa hồng.
Nhưng con nhớ cỡi nó thường như con kia, ba không thích ở Drogheda có
ngựa phát phì, con nghe ba chứ?
Cho tới nay, Meggie chẳng muốn cỡi con ngựa cái của cha Ralph nhưng từ
nay Meggie sẽ cỡi luân phiên hai con để cả hai đều lãnh phần thức ăn của
nó xứng đáng.
Mùa đông khô và các trận mưa mùa hè không đến. Cỏ mọc cao lên tới đầu
gối, um tùm, chịu những trận nắng dữ dội, khiến cho từng cọng cỏ trở nên
khô dòn. Từ trong các khu đất rào nuôi cừu nhìn ra xa phải nheo mắt lại và
kéo sụp vành nón rộng xuống trán. Đồng cỏ - như mặt gương màu vàng óng
ánh - cuốn thành hình trôn ốc trước từng cơn lốc tạo ra những ảo giác xanh,
sáng nhoáng; lá vàng và những cành khô nhỏ bay lên, từ đống này sang
đống khác.
Khô hạn dữ dội! Ngay cả những cây lớn cũng khô héo, vỏ tróc ra từng vạt
cứng dòn. Những con cừu không bị ảnh hưởng gì vì cỏ còn đó ít nhất một
năm hay lâu hơn, nhưng con người thì không tránh khỏi bị ảnh hưởng nặng
bởi thời tiết khô cằn này. Người ta vẫn hy vọng năm sau hay năm sau nữa
mưa sẽ đến. Trong những năm may mắn, người ta được hưởng từ ba mươiđến bốn mươi centimet lượng mưa; còn những năm thời tiết xấu chỉ còn
năm centimet hay không có gì cả.
Mặc cho cái nóng thiêu đối và ruồi, Meggie vẫn yêu sống ở những bãi
chăn cừu. Vào những lúc rỗi rảnh, Meggie nghiên cứu thiên nhiên, và nhớ
đến Ralph như thường lệ. Trong đáy lòng mình, Meggie không bao giờ coi
tình cảm dành cho Ralph như một thứ tình cảm hết sức vẩn vơ của trẻ con;
Meggie vẫn coi đó hết sức đơn giản là tình yêu, tình yêu như trong các
cuốn sách. Thật là bất công, cái hàng rào giả tạo dựng lên bởi chiếc áo
dòng đã chắn giữa Meggie và điều mà cô chờ đợi ở Ralph: trở thành người
vợ ông: Meggie ao ước được sống với Ralph như cha mẹ cô sống với nhau
và đạt tới một sự hòa hợp mà ông sẽ yêu Meggie như ba đã yêu mẹ. Lúc đó
Ralph sẽ nhanh chóng nhận ra rằng cuộc sống chung với Meggie sẽ đáng
sống hơn biết bao so với cuộc sống đơn độc. Meggie không biết rằng
Ralph không thể từ bỏ chiếc áo dòng bất cứ lý do nào.
Vâng, Meggie biết một linh mục không thể là chồng hay là người tình được
nhưng cô đã có thói quen vượt qua điều cấm kỵ ấy bằng cách phớt lờ chức
năng tôn giáo của Ralph. Những hiểu biết ít ỏi về đức tin công giáo chưa
bao giờ giúp Meggie có thể bàn đến những lời nguyện của một linh mục;
vả lại bản thân cũng không có nhu cầu bức thiết về tôn giáo và Meggie đã
gạt ra ngoài những suy nghĩ sâu xa. Chưa bao giờ thấy được an ủi với các
lần cầu kinh, Meggie tuân theo các lề luật của Nhà thờ chẳng qua vì sợ
rằng nếu vi phạm sẽ bị đày xuống địa ngục vĩnh viễn.
Lúc này đây, Meggie tưởng tượng đến hạnh phúc được sống chung, ngủ
bên cạnh cha Ralph. Nhưng chính ý nghĩ được gần gũi ấy bỗng làm Meggie
bực bội rồi trở nên khó chịu, bồn chồn. Ngồi trên lưng ngựa Meggie nghĩ
đến vô số những nụ hôn mà không hề biết rằng sự khó chịu bồn chồn kia
xuất phát từ một đòi hỏi khác.
Những lần phi ngựa qua các bãi chăn cừu đã không giúp Meggie hiểu biết
thêm chút nào về vấn đề sinh lý vì rằng mùi chó săn từ xa đã cắt đứt ngay
mọi thèm muốn cặp đôi giữa những con cừu. Ngoài ra cũng như tất cả các
trại chăn nuôi khác, người ta không bao giờ để việc nhảy giống không tínhtoán trước xảy ra... Khi các con cừu đực được thả chung với các con cừu
cái trong một khu đất rào thì Meggie được lệnh của cha phải đi nơi khác.
Còn khi gặp một con chó nhảy lên một con khác, phản ứng tự nhiên của
Meggie là vung roi lên ngăn cản chúng... đùa giỡn.
Chưa chắc ai đã giải thích được trong hai điều sau đây điều nào tai hại
hơn: một là đòi hỏi lờ mờ, bồn chồn trong dạ rồi bực bội nổi lên, và một
thèm muốn cụ thể kèm theo nhu cầu rõ ràng được thỏa mãn. Meggie thì
khắc khoải mà không hiểu rõ đòi hỏi sau đó là gì, nhưng sự nổi dậy trong
lòng thì rõ ràng là có và những lúc như thế Meggie nghĩ đến Ralph một
cách cuồng nhiệt, mơ tưởng, buồn khổ và thèm muốn. Cuối cùng thì
Meggie buồn phiền vì dù cho Ralph đã thú nhận yêu mình, trên thực tế
chẳng là gì cả trong lòng Ralph, cho nên chẳng bao giờ cha trở về thăm
Meggie.
Giữa lúc Meggie miên man suy nghĩ, thì Pađy phi ngựa tới, ông cũng đang
trên con đường về nhà. Thấy con mỉm cười, Pađy ghìm ngựa lại và chờ.
- Một bất ngờ thú vị! Ông nói to và cho con ngựa già màu xám đi sát bên
con ngựa hồng của con gái.
- Vâng, thú vị lắm, ba ạ. Ở các bãi xa có khô hạn không ba?
- Còn hơn ở đây. Chưa bao giờ ba thấy nhiều con căngguru như thế! Có lẽ
chúng không còn tìm thấy cái gì để ăn phía Milpariaka. Martin King dự
định sẽ giết chúng hàng loạt nhưng ba cho rằng như vậy cũng không có
cách nào làm bớt đi những con thú ấy, dù cho chúng ta có dùng đến súng
máy đi nữa.
Ông rất tốt, rất ân cần, thông cảm và đáng yêu. Meggie rất ít khi gặp cha
một mình. Không để mất thì giờ suy nghĩ, Meggie hỏi cha ngay một băn
khoăn đang cháy bỏng trên môi, mặc dù cô đã cố gắng tự trấn an:
- Ba ơi, tại sao cha Bricassart không trở lại thăm chúng ta nữa?
- Cha bận đấy con à, Pađy trả lời bằng một giọng thận trọng.
- Nhưng các linh mục cũng nghỉ hè chứ ba? Cha rất yêu Drogheda. Con tin
rằng cha cũng thích đến nghỉ hè ở đây chứ.
- Về mặt nào đó, đúng là các linh mục cũng nghỉ hè, Meggie. Tuy nhiên họ
luôn luôn ràng buộc với nhiệm vụ. Thí dụ ngày nào trong cuộc đời của cáccha cũng phải làm lễ, cho dù chỉ có một mình. Ba tin rằng cha Bricassart
rất chín chắn, cha biết rằng không thể nào trở lui lại lối sống trước đây.
Đối với cha Ralph, Drogheda gần như đã thuộc về quá khứ, Meggie, ba
nghĩ, nếu có trở về đây cha cũng không tìm lại được niềm vui xưa kia.
- Có phải ý ba muốn nói là cha đã quên chúng ta? Meggie hỏi, giọng buồn
buồn.
- Không hoàn toàn như thế. Nếu đúng là cha Ralph đã thật sự quên chúng
ta, thì cha đã không viết thư thường xuyên và hỏi thăm từng người. Ba nghĩ
rằng tốt hơn là cha Ralph không nên trở lại đây nữa!
- Ba nói sao?
Pađy đã nhất quyết giải thích một điều mà ông thấy trước sẽ không đơn
giản.
- Con nghe đây Meggie, thật không hay chút nào nếu con cứ mơ tưởng đến
một linh mục, con phải hiểu điều đó. Cho đến nay con đã giữ được những
bí mật của con. Ba không nghĩ rằng đã có ai đó biết được chuyện của con;
nhưng nay con đặt một số câu hỏi thẳng với ba phải không? Câu hỏi đặt ra
không nhiều, nhưng ba cho rằng như thế tạm đủ. Bây giờ con nghe và phải
tin ba nhé. Con phải chấm dứt ngay. Cha Ralph đã có những lời nguyền
thiêng liêng mà cha không bao giờ muốn làm ngược lại. Nếu còn tiếp tục
như trước, con không xứng đáng với tình cảm trong sáng mà cha Ralph đã
dành cho con. Cha Ralph biết con lúc con còn bé tí, nay cũng với hình ảnh
và tình cảm đó, cha đã xử sự với con như thế thôi Meggie à.
Meggie không trả lời và trên gương mặt vẫn không để lộ một xúc động nào.
Pađy nghĩ: đúng là con gái của Fiona.
Một lúc sau, bằng giọng bực dọc, Meggie nói:
- Nhưng ông ấy có thể thôi làm linh mục; ông ấy sẽ hiểu ngay nếu con có
dịp nói chuyện đó.
Nét mặt Pađy trở nên hốt hoảng khiến Meggie hiểu ngay những gì chứa
đựng bên trong suy nghĩ của ba mình. Lời lẽ chắc không còn cần thiết nữa,
Meggie không dám nói thêm.
- Meggie ơi! Lạy Chúa! Đây là cái giá đắt nhất và tai hại nhất mà cuộc
sống biệt lập của chúng ta phải trả! Đáng lý con phải đến trường học, congái của ba; nếu cô Mary chết sớm hơn thì ba đã gởi con đi học ở Sydney, ở
trường ít nhất hai năm nữa. Bây giờ con đã quá tuổi rồi. Ba không muốn
người ta chế nhạo con. Cha Ralph là một linh mục, Meggie. Ông không bao
giờ, mãi mãi không bao giờ dứt bỏ được chiếc áo dòng, con có hiểu
không? Những lời khấn nguyện của cha là thiêng liêng, quá long trọng và
không thể bội phản. Khi một người đã khoác áo linh mục, người đó không
thể trở lại được; trước đó các đấng bề trên ở tu viện cũng phải biết chắc
người mới vào tu có hiểu được vì sao họ chọn con đường phụng sự Chúa
hay không. Người đã khấn nguyện không mơ hồ một chút nào rằng ngay cả
cái chết cũng không thể lay chuyển được sự chọn lựa của mình. Cha De
Bricassart đã khấn nguyện và cha sẽ không bao giờ dứt khoát được với lời
nguyền ấy. Bây giờ con đã biết, Meggie. Từ nay, nếu tiếp tục mơ tưởng cha
De Bricassart thì đó là điều không thể tha thứ được.
(Còn nữa)