December 17, 2014

Chế độ mẫu hệ của người Chăm

Standard

CHẾ ĐỘ MẪU HỆ CỦA NGƯỜI CHĂM

                          Hoàng Đức Triêm


DẪN NHẬP. 1
1.    Lý do chọn đề tài 3
2.    Mục đích nghiên cứu. 3
3.    Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 3
4.    Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 3
5.    Ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 4
6.    Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu. 4
7.    Bố cục: gồm 3 chương. 4
NỘI DUNG.. 5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUÂN VÀ THỰC TIỄN.. 5
1.    Chế dộ mẫu hệ của người Chăm.. 5
2.    Nguồn gốc chế độ mẫu hệ Chăm.. 6
Chương 2:  CHẾ ĐỘ MẪU HỆ TRONG XÃ HỘI CHĂM... 7
1.    Tại sao người Chăm không có nữ vương. 7
2.    Vai trò của người nam trong chế độ mẫu hệ Chăm.. 7
Chương 3:  DÒNG TỘC VÀ GIA PHẢ CHĂM... 9
1.    Vị trí con và cháu trong cộng đồng dân tộc Chăm.. 9
2.    Cách ghi chép gia phả người Chăm.. 9
KẾT LUẬN.. 11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DẪN NHẬP

1.                  Lý do chọn đề tài

Từ xa xưa chế độ mẫu hệ đã hình thành và phát triển trong xã hội nhưng dần bị thay thế bởi chế độ phụ hệ. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều dân tộc tồn tại chế chế độ mẫu hệ cho đến tận ngày nay. Để góp phần tìm hiểu và làm rõ hơn về chế độ mẫu hệ trên đất nước ta, tôi đã làm đề tài liên quan tới chế độ mẫu hệ của nền văn hóa Chăm, một nền văn hóa lớn và đặc sắc mà ngày nay rất nhiều học giả và nhà nghiên cứu đang say mê tìm hiểu về nền văn hóa của dân tộc này.

2.                  Mục đích nghiên cứu

Nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn đúng đắn hơn trong việc như thế nào là chế độ mẫu hệ, gia phả của chế độ mẫu hệ được viết như thế nào,… đồng thời giới thiệu cho bạn đọc về một nền văn hóa Chăm độc đáo.

3.                  Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Có rất nhiều công trình và tác giả nghiên cứu đến vấn đề này, những trong giới hạn cho phép tôi chỉ xin giới thiệu về một tác giả và những tài liệu mà tôi đọc đồng thời còn rất nhiều tài liệu trên Internet mà tôi sử dụng:
Inrasara, Văn hóa – xã hội Chăm nghiên cứu và đối thoại: trong cuốn sách này tác giả đã nêu lên rất nhiều vấn đề trong xã hội đời sống Chăm, đồng thời tác giả nói tới chế độ mẫu hệ Chăm ở trong thần thoại và truyền thuyết và những biểu hiện của nó ở trong xã hội và đời sống.

4.                  Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Chủ thể nghiên cứu: người Chăm.
Thời gian: văn hóa mẫu hệ Chăm từ xưa tới nay.
Không gian: văn hóa Chăm .

5.                  Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Giới thiệu về chế độ mẫu hệ Chăm, cung cấp cho bạn đọc những tri thức phổ thông nhất về mẫu hệ và những nét văn hóa từ chế độ mẫu hệ này.

6.                  Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu

Phương pháp nhiên cứu chủ yếu là: tổng hợp, phân tích,…
Nguồn tự liệu trong sách và Internet là chủ yếu .

7.                  Bố cục: gồm 3 chương

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chương 2:  DÒNG TỘC VÀ GIA PHẢ CHĂM

NỘI DUNG 

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUÂN VÀ THỰC TIỄN

1.                  Chế dộ mẫu hệ của người Chăm

Mẫu hệ hay chế độ mẫu hệ nghĩa là người phụ nữ, người cai trị, nắm quyền hành, tương tự như phụ hệ thường đi đôi với phụ quyền, và đồng nhất mẫu hệ với mẫu quyền. Mẫu hệ thường bao hàm hình thức tổ chức cộng đồng trong đó quyền lực nằm ở những người phụ nữ hay những người mẹ và chế độ mẫu hệ hay chế độ mẫu quyền là một hình thái tổ chức xã hội trong đó người phụ nữ, đặc biệt là người mẹ, giữ vai trò lãnh đạo, quyền lực và tài sản được truyền từ mẹ cho con gái.
Khi chấp nhận công thức: Mẫu hệ = mẫu quyền + chỗ ở theo mẹ, người ta thường hiểu mẫu quyền là một chế độ mà người phụ nữ có quyền hành vượt trội hơn người đàn ông.
Người Chăm theo mẫu hệ, nên “dòng họ bên mẹ” phải được gọi hoặc được dịch ra tiếng Việt là “họ nội”, và “dòng họ bên cha” là “họ ngoại”, “ông nội” là “ông ngoại”, “bà ngoại” là “bà nội”,… vì vậy có nhiều người nhầm lẫn. Quả vậy, hoán vị hai từ “nội” - “ngoại” không phải là việc khó, nhưng hình dung cho chính xác và mạch lạc hệ thống quan hệ thân tộc và hôn nhân theo mẫu hệ ấy thì không phải là chuyện dễ đối với những người đã quen với mô hình quan hệ thân tộc và hôn nhân theo phụ hệ của người Việt.
Nói tóm lại, mẫu hệ là tính theo dòng mẹ, con theo họ mẹ, thừa kế tài sản theo dòng họ mẹ và sau khi kết hôn phải về ở nhà phía vợ. Trong xã hội mẫu hệ, phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình và dòng họ. Đặc điểm bao trùm lên toàn bộ xã hội của các tộc người trên là vai trò nổi bật của dòng nữ (dòng mẹ). Như vậy, mẫu hệ ở đây được hiểu là một xã hội trong đó quan hệ huyết thống và quan hệ thừa kế được tính theo dòng của mẹ. Mẫu hệ vừa là một hình thái xã hội, vừa được xem như là một hình thái văn hóa trong đời sống tộc người.

2.                  Nguồn gốc chế độ mẫu hệ Chăm

Về nguồn gốc chế độ mẫu hệ Chăm, theo các nhà nghiên cứu các nguyên nhân lịch sử, chính trị kinh tế và yếu tố tình cảm ít liên quan đến việc hình thành chế độ mẫu hệ Chăm. Người “con” nào không phải do “mẹ” sinh ra. Chính nguồn gốc nhân chủng, văn minh mới là yếu tố quyết định. Người Chăm vốn là dòng Mã Lai – Đa đảo thộc vùng văn minh hải đảo chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn – Islam mà hiện nay vẫn còn theo chế độ mẫu hệ. Họ di cư và mang theo nhiều phong tục, tập quán cùng với chế độ gia đình mẫu hệ.
Trong thần thoại, truyền thuyết Chăm chúng ta thấy giải thích vị thần nữ tối cao Pô Inư Nưgar, một vị quốc mẫu của người Chăm, được biểu thị qua hình tượng Bà Mẹ xứ sở, được nhân bản hóa thành mẫu thần của xứ sở người Chăm. Bà chính là người dạy cho dân biết phương cách sản xuất lúa, biết cách nhập thủy phát triển kinh tế và trồng trọt mang đến cho dân tộc Chăm một cuộc sống ẫm no và hạnh phúc.
Trong xã hội Chăm, mặc dầu có địa vị “trên” nhưng không phải lúc nào người phụ nữ Chăm cũng dành phần hơn về mình và cho mình. Khi Islam nhập địa Champa, qua lý giải Pô Inư Nưgar chỉ là Bà Mẹ của vương quốc trong lúc Allah mới là thượng đế tối cao, thì người Chăm đã đưa Đấng này lên trên Bà Chúa xứ của mình ở bên thờ mà không ngại ngùng gì cả.
Văn hóa mẫu hệ ngoài việc phản ánh rõ trong gia đình, dòng họ Chăm, tác động mạnh mẽ đến tổ chức xã hội dựa trên dòng mẹ, các nghi lễ theo dòng mẹ cũng là yếu tố quan trọng cấu thành hệ thống lễ nghi phong tục tập quán người Chăm. Trong xã hội truyền thống, mọi sinh hoạt gia đình, người phụ nữ Chăm giữ vai trò quan trọng trong hôn nhân, trong tang lễ, trong tế tự, trong vấn đề quản thủ tài sản lẫn con cái trong gia đình.

Chương 2:  CHẾ ĐỘ MẪU HỆ TRONG XÃ HỘI CHĂM

1.                  Tại sao người Chăm không có nữ vương

Vậy tại sao dân tộc Chăm theo chế độ mẫu hệ mà không có nữ vương? Tại sao đặc quyền học hành chỉ dành cho con trai (nếu có sự chon lựa trai/gái)?. Vì theo chế độ mẫu hệ thì người phụ nữ có đủ mọi thứ quyền: quyền làm chủ gia đình, quyền sở hữu tài sản, quyền chính trị,… nhưng trong xã hội Chăm thì triết lý nhân sinh quan của dân tộc Chăm rất khác. Đó là người phụ nữ chỉ có quyền hành trong gia đình, lo coi sóc chuyện gia đình như là bổn phận phải nối dõi dòng họ và lo việc thờ cúng trong khi người đàn ông có trách nhiệm và quyền hạn đối với xã hội. Triết lý sống này được thể hiện ngay trong câu nói của người Chăm:“Likei dơng di mưsuh, kamei dơng di mưnưk”
(Phận của đàn ông là chiến đấu, phận của đàn bà là sinh nở)
(Đàn ông chịu trách nhiệm chiến đấu, đàn bà chịu trách nhiệm sinh đẻ).

2.                  Vai trò của người nam trong chế độ mẫu hệ Chăm

Đây là lời nói đã làm sụp đổ mọi phê phán ấu trĩ về chế độ mẫu hệ Chăm, thân phận đàn bà là sinh nở, hãy để cho họ cai quản gia đình. Đây là quyền lợi và nghĩa vụ tối cao của người phụ nữ. Còn đàn ông, hãy trang bị cho họ đầy đủ vũ khí để họ lao vào cuộc chiến lớn và khốc liệt; hãy để họ làm chủ xã hội. Quan hệ huyết thống và quan hệ thừa kế đều được tính theo dòng mẹ, nhưng điều đó không nhất thiết có nghĩa là người mẹ hay một người phụ nữ cụ thể nắm quyền cai trị gia đình, dòng tộc. Ngược lại, trong cuộc đấu tranh sinh tồn với những cộng đồng lân cận và với thiên nhiên hoang dã, vai trò thủ lĩnh của cộng đồng thường được trao cho nam giới là những người có sức vóc hơn.  Do mối quan hệ đó, tư cách thủ lĩnh của người đàn ông không phải là một tư cách nhất thời mà là dài hạn, thậm chí cả khi ông ta đã đi lấy vợ. Ngay trong thời gian ở rể, ông ta cũng có thể được các thành viên gia đình hoặc dòng tộc bên vợ tín nhiệm, giao nhiệm vụ, trở thành người chỉ huy chiến đấu hoặc đại diện cho gia đình mình hoặc cho nhà vợ trong quan hệ đối ngoại. Như vậy, người chủ gia đình và người tộc trưởng là người mẹ, nhưng điều hành các sinh hoạt chung của cộng đồng, đặc biệt là những sự vụ quan trọng, lại là nam giới. Một chế độ gia đình như vậy có thể ví với một cái sườn nhà lấy người mẹ làm mối nối, lấy nam giới làm rường cột. Vì thế ở xã hội Chăm dù là theo mẫu hệ, nhưng người thay mặt dòng họ mẫu hệ Chăm để đứng ra cai quản toàn vương quốc là nam giới. Vì vậy, mặc dù người Chăm theo mẫu hệ nhưng trong lịch sử Champa, tất cả các vị vua Chăm đều là nam giới và nhiều trường hợp không phải là cha truyền ngôi cho con (vì khác dòng họ), mà là cậu cháu truyền ngôi cho nhau (vì cùng dòng họ). 

Chương 3:  DÒNG TỘC VÀ GIA PHẢ CHĂM

1.                  Vị trí con và cháu trong cộng đồng dân tộc Chăm

Con sinh ra theo mẹ, quyền thừa kế là con gái, con gái truyền nối dòng cho gia đình con trai theo vợ.
Con gái út có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, ông bà, các ngày cúng giỗ con gái lo, con trai chỉ đến tham dự vì trách nhiệm con trai là ở phía nhà vợ với tư cách như là dâu của người Việt.
Con của con gái là cháu nội của dòng họ, con của con trai là cháu ngoại. Trong xã hội của người Chăm, con cháu của con gái là huyết thống; con của con trai, cháu của con trai là ngoại tộc.
Người đàn bà với nhà chồng là dâu nhưng tư cách như người rể, không có bổ phận nặng nhọc.
Anh em cùng mẹ khác cha có mối quan hệ ruột thịt, gần gũi hơn anh em cùng cha khác mẹ.
Con của các chị em gái là dòng họ nội, giống như con trai và cháu gái của người Việt.
Con trai khi lấy vợ không còn trách nhiệm với gia đình như các cô dâu Việt đã xuất giá theo chồng.
Chế độ mẫu hệ và chế độ phụ hệ có sự ngược lại trong cách định hình quyền hạn, chuyển đổi vai trò từ nam qua nữ và ngược lại.

2.                  Cách ghi chép gia phả người Chăm

Gia phả người Chăm cũng như gia phả người Việt, nhưng không phải dòng họ nào cũng được ghi chép dầy đủ. Chỉ có hoàng tộc là có đủ điều kiện, đủ kiễn thức để ghi lại gia phả của dòng họ mình một cách đầy đủ.
Người Chăm không quan trọng ở “họ” như vậy chúng ta dựa vào những tiêu chí dưới đây để xây dựng huyết thống dòng họ trong gia phả:
Bà tổ là người dầu tiên trong gia phả, thân thế và sự nghiệp được ghi chép một cách đầy đủ nếu con cháu biết đến. Ông tổ thì ghi đơn giản tên ông, thậm chí không ghi gì thêm. Muốn biết về ông tổ thì con cháu phải quay về phía dòng ông để tìm.
Các con của ông bà tổ được ghi đầy đủ dù trai hay gái, theo thứ tự lớn trước nhỏ sau, anh chị đến em.
Các con gái bắt đầu cho đến kế tiếp, mỗi người con gái đứng đầu cho một gia đình trong khuôn khổ gia đình này chồng các bà được ghi chép, nếu có nhiều chồng các ông chồng cũng lần lượt được ghi. Các con sẽ được ghi theo thứ tự lớn trước nhỏ sau.
Trong gia phả không mở trang cho các con trai dù là người này đã có vợ hay chưa, nghĩa là con trai chỉ ghi theo trong phần gia phả của cha mẹ.
Các con gái đời kế tiếp là cháu nội, khi trưởng thành đủ với tư cách người mẹ lại được lập thành những trang gia phả tiếp. Trong trường hợp là con cùng mẹ khác cha thì các mục ghi chú cũng có thể hiện con ông cha nào.
Theo nguyên tắc này gai phả được ghi cho đến đời cuối cùng tại thời điểm làm gia phả.
Con cháu nhiều đời cho một dòng huyết thống căn cứ vào tên người mẹ và truy tìm ngược về các đời trước trong gia phả, các con của con trai đều là cháu ngoại, muốn biết lai lịch ông hay cha mình có thể truy tìm trong gia phả phía ngoại mới ghi đầy đủ thông tin.
Gia phả thường là ghi lại những sự kiện có trước, có khi phải tìm trong trí nhớ của người già do đó gia phả có thể thể hiện trong giới hạn. Bà tổ trong gia phả sẽ là người ở trong mốc thời gian còn biết nhờ vào tư liệu ghi chép hoặc bằng trí nhớ như vậy để nhìn nhận cao hơn, xa hơn con cháu đến nghĩa đại Kut, nơi cất và thờ bà con phía nội trong đó có rể. Tại nghĩa địa Kut sẽ ghi tên bà tổ của dòng tộc trên Klaung (hộp đựng 9 miễng xưa trán), có khi ở đó chỉ ghi tên bà tổ lớn nhất nhưng không có gì trong Klaung. Những gia đình có người thân nhập chung một nghĩa địa Kut chắc chắn là bà con dòng tộc.

KẾT LUẬN

Nền văn hóa Chăm là một nền văn hóa lớn của đất nước ta, với những đóng góp to lớn trong các lĩnh vực: điêu khắc, tín ngưỡng thờ mẫu Pô Inư Nưgar, các lẽ hội như Kate,…. Làm phong phú nền văn hóa của nước nhà, và ngày nay rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu đang tìm hiểu nền văn hóa đặc sắc này.
Trong đó chế độ mẫu hệ của người Chăm rất được đáng chú ý với những giá trị nhân sinh quan của người Chăm đó là người phụ nữ chỉ có quyền hành trong gia đình, lo coi sóc chuyện gia đình như là bổn phận phải nối dõi dòng họ và lo việc thờ cúng trong khi người đàn ông có trách nhiệm và quyền hạn đối với xã hội.
Với những tác động to lớn như vậy nền văn hóa Chăm đang từng ngày phát triển chung với đất nước ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Ngô Đức Thịnh, Đạo thờ mẫu ở Việt Nam, NXB Thời đại, 2012
  2. Inrasara, Văn hóa – xã hội Chăm nghiên cứu và đối thoại, NXB Văn học, 2008