Nguyễn Bính, nhà thơ được mệnh danh là nhà thơ của nông thôn, “chân quê” có phong cách thơ giản dị, gần gũi với đời sống của những người nông dân chất phác, thật thà. Nàng thơ của ông là những cô gái duyên thắm má đào, e thẹn khi đề cập đến tình duyên, yêu thương không trọn vẹn, tương tư đến tận trời xanh cũng thấu.
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA
VĂN HÓA HỌC
MÔN:
VĂN HÓA VIỆT NAM QUA VĂN HỌC
Đề tài: Cái tôi trong thơ Nguyễn Bính
GVHD:
TS. PHAN MẠNH HÙNG
NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1. NGUYỄN
HUỆ 1056140014
2. NGUYỆN
THỊ TRÚC HUỆ 1056140015
3. LÊ
HỒNG NHỊ 1056140027
4. NGUYỄN
VĂN THUẬN 1056140046
5. NGUYỄN
THỊ VÂN 1056140060
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, 8 NĂM 2014
MỤC
LỤC
Lý
do chọn đề tài ..................................................................................... 2
Phương
pháp nghiên cứu........................................................................... 2
Mục
đích nghiên cứu.................................................................................. 2
1. Giới thiệu về Nguyễn Bính.................................................................... 3
2. Khái quát một số tác phẩm nổi tiếng..................................................... 4
3. Vị trí thơ Nguyễn Bính trong phong trào Thơ Mới............................... 5
4. Phân tích cái tôi trong thơ Nguyễn Bính............................................... 16
4.1 Hoàn cảnh lịch sử thời đại ảnh hưởng đến thơ Nguyễn Bính.......... 16
4.2 Sự tiếp xúc các nền văn hóa trong thơ Nguyễn Bính...................... 18
4.3 Đặc điểm cái tôi trong thơ Nguyễn Bính........................................ 24
Kết luận ..................................................................................... 29
Tài liệu tham khảo..................................................................................... 30
1. Giới thiệu về Nguyễn Bính.................................................................... 3
2. Khái quát một số tác phẩm nổi tiếng..................................................... 4
3. Vị trí thơ Nguyễn Bính trong phong trào Thơ Mới............................... 5
4. Phân tích cái tôi trong thơ Nguyễn Bính............................................... 16
4.1 Hoàn cảnh lịch sử thời đại ảnh hưởng đến thơ Nguyễn Bính.......... 16
4.2 Sự tiếp xúc các nền văn hóa trong thơ Nguyễn Bính...................... 18
4.3 Đặc điểm cái tôi trong thơ Nguyễn Bính........................................ 24
Kết luận ..................................................................................... 29
Tài liệu tham khảo..................................................................................... 30
Phân
công công việc.................................................................................. 31
MỞ
ĐẦU
1.
Lý
do chọn đề tài.
Môn
Văn hóa Việt Nam Qua Văn Học đã giúp cho chúng em có thêm được nhiều kiến thức
hiểu thêm được nền văn học của nước nhà, những ý nghĩa sâu xa của văn học trong
cuộc sống. Qua môn học lần này nhóm em quyết định chọn đề tài này để nhóm có thể
hiểu thêm một giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam, đồng thời qua đó cũng
tìm hiểu rõ hơn về nhà thơ Nguyễn Bính, hiểu rõ những cái đặc sắc của ông. Đồng
thời qua đó hiểu rõ đặc điểm của giai đoạn này và từ đó hiểu hơn về những giá
trị van hóa được thể hiện.
Nhóm
mong muốn là với đề tài này không chỉ để cho thành viên trong nhóm hiểu hơn về
văn học Việt Nam cũng như hiểu rõ hơn về nét đặc việt của nhà thơ Nguyễn Bính,
mà qua đó nhóm mong rằng nội dung mà mình tìm hiểu có thể giới thiệu đến mọi
người và cùng nhau tìm hiểu tốt hơn.
2.
Phương
pháp nghiên cứu
Phương
pháp của nhóm nghiên cứu thông qua bài giảng của thầy trên lớp và qua những kiến
thức mà nhóm đã được học thời phổ thông.
Nhóm
cũng đi vào nghiên cứu thông qua những công trình nghiên cứu đi trước, qua tác
phẩm của nhà thơ, tài liệu trên mạng. Qua đó phân tích và tổng hợp và làm rõ nội
dung mà nhóm đã đua ra.
3.
Mục
đích nghiên cứu
Với
đề tài này nhóm tìm hiểu rõ hơn về giai đoạn phát triển văn học của đất nước,
qua đó tìm hiểu thêm về nhà thơ Nguyễn Bính một nhà thơ có cái tôi rất riêng và
đặc sắc.
NỘI
DUNG
1.
GIỚI THIỆU VỀ NGUYỄN BÍNH
Nguyễn
Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính. Ông sinh vào cuối xuân đầu hạ năm 1918 tại
xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, Xã Đồng Đội ( nay là xã Cộng Hòa ) huyện Vụ Bản, tỉnh
Nam Định, trong một gia đình nhà nho nghèo. Nguyễn Bính bắt đầu làm thơ từ năm
13 tuổi. Năm 1932, Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và bắt đầu nổi tiếng với bài
thơ “Cô gái hái mơ” (1937), được giải khuyến khích của hội Tự Lực văn đoàn với
tập thơ “Tâm hồn tôi” (1940). Năm 1943, Nguyễn Bính vào Nam Bộ, đến năm 1944 được
giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ “Cây đàn tì bà”.
Trong
cách mạng tháng Tám và suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Bính
hoạt động ở Nam Bộ. Nhà thơ tham gia giữ những trách nhiệm trọng yếu như: Phụ
trách Hội Văn nghệ cứu quốc tỉnh Rạch Gía, phó chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh
Rạch Gía, sau làm ở ban Văn nghệ Phòng Tuyên huấn Quân Khu Tám. Tháng 11 năm
1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1956 làm
chủ bút tuần báo Trăm hoa. Đầu năm 1964, Nguyễn Bính về công tác ở Ty văn hóa
Nam Hà (cũ). Nguyễn Bính đột ngột mất vào sáng 30 tết năm Ất Tỵ (tức ngày
20-1-1966) khi đến thăm một người bạn tại xã Hòa Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định.
Năm
2000, Nguyễn Bính được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật
đợt II.
Hai
mươi năm sau cái chết của Nguyễn Bính (20/1/1966), tác phẩm của nhà thơ này mới
thoát khỏi cõi “im lặng đáng sợ” của sự quên lãng chẳng biết vô tình hay cố ý của
những ai ai, trở lại được in ấn, đăng tải, bàn luận. Từ 1986, những sưu tập,
tuyển tập thơ Nguyễn Bính liên tục được in ra, liên tục có mặt trên giá các quầy
sách các hiệu sách. Tiếp đó cũng đã thấy xuất hiện nhiều cuốn sách nói về con
người, cuộc đời và đặc sắc sáng tạo của nhà thơ này. Khá nhiều đoạn đời Nguyễn
Bính đã được phác hoạ, dù có khi chỉ thông qua những giai thoại. Tuy vậy, có một
loạt sự việc về hoạt động của Nguyễn Bính những năm 1955-57, tức là khi Nguyễn
Bính từ miền Nam tập kết ra Bắc, sống và làm việc ở Hà Nội, làm báo Trăm
hoa, rồi sau chừng như là bị an trí, nghĩa là bị buộc phải về sống ở Nam Định,
− thì hầu như ít thấy ai nhắc đến. Những bài viết được gom vào các cuốn
sách Nguyễn Bính, thi sĩ của yêu thương ; Nguyễn Bính, đời và thơ ; Thơ và
giai thoại Nguyễn Bính ; Nguyễn Bính, nhà thơ chân quê, v.v… không nhắc gì
đến sự việc này; những người được xem là từng có xúc tiếp thậm chí cùng làm việc
với Nguyễn Bính thời gian nói trên như Trần Lê Văn, Hoài Việt,…nếu nhắc đến
cũng chỉ bất đắc dĩ xác nhận “Nguyễn Bính làm báo Trăm hoa”, thế thôi.
Có lẽ, Tô Hoài là người trong cuộc duy nhất
tính đến nay có hé ra đôi dòng hồi ức về hoạt động nói trên của Nguyễn Bính. Rải
rác trong hai cuốn của Tô Hoài Cát bụi chân ai (1992) và Chiều
chiều (1999), người đọc có thể nhặt được đôi chi tiết về Nguyễn Bính thời
làm báo Trăm hoa, tất nhiên là được trình bày hoàn toàn theo cách
nhìn của người kể chuyện.
2. KHÁI QUÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM NỔI TIẾNG
Trong
suốt sự nghiệp sáng tác của mình Nguyễn Bính đã để lại một số lượng tác phẩm đồ
sộ. Độc giả biết đến thơ Nguyễn Bính với những tác phẩm tiêu biểu như:
Lỡ
bước sang ngang (thơ)
Tâm
hồn tôi (thơ)
Hương
cố nhân (thơ)
Mười
hai bến nước (thơ)
Người
con gái ở lầu hóa (thơ)
Không
nhan sắc (truyện)
Trả
ta về (thơ)
Đồng
tháp mười (thơ)
Gửi
người vợ Miền Nam (thơ)
Đêm
sao sáng (thơ)
Và
một số tá phẩm khác:
Các
tập thơ: Một nghìn cửa sổ ( 1941), Mây Tần ( 1942), Tập Thơ yêu nước, Sóng biển
cỏ, Ông lão mài gươm (1947), Trăng kia đã đứng ngang đầu, Những dòng tâm huyết,
Mừng Đảng ra đời ( 1953), Nước giếng thơi ( 1957), Tình nghĩa đôi ta ( 1960).
Truyện
Thơ: Cô gái Ba Tư ( 1943), Cây đàn Tỳ Bà ( 1944), Trông bóng cờ bay ( 1957), Tiếng
trống đêm xuân ( 1958).
Truyện:
Ngậm miệng (1940), Thạch xương bồ, Không đất cắm dùi ( 1944), Sang máu ( 1947).
Kịch
bản chèo: Cô Son (1961), Người lái đò sông Vị (1964).
Lý
luận sáng tác: Cách làm thơ lục bát (1955).
3. VỊ TRÍ THƠ NGUYỄN BÍNH TRONG
PHONG TRÀO THƠ MỚI
Trong
phong trào thơ mới giai đoạn (1930 -1945) khi nhiều nhà thơ có ý "hiện đại
hóa" thơ mình về mọi mặt thì có một nhà thơ lặng lẽ, âm thầm sáng tác và
đi theo một con đường riêng. Ðó là Nguyễn Bính.
Ðương thời, đánh giá về thơ Nguyễn Bính có
nhiều ý kiến rất khác nhau. Thậm chí có người còn cho rằng, thơ Nguyễn Bính chỉ
để những người mộc mạc "chân quê" đọc và thưởng thức mà thôi. Nhưng
thật kỳ lạ càng trải qua thời gian hơi thơ mộc mạc, quê mùa, hương đồng gió nội
ấy càng ăn sâu, bám rễ trong lòng người đọc. Nhiều thế hệ người Việt Nam đã đọc,
đã thuộc và say mê thơ Nguyễn Bính. Chính hơi thở quê mùa, dung dị ấy là yếu tố
khẳng định vị trí Nguyễn Bính trong nền văn học Việt Nam.
Xuất
hiện trên thi đàn khá sớm nhưng tiếng thơ chân quê của Nguyễn Bính chưa phải
trong một sớm một chiều đã tạo được tiếng vang trong công chúng độc giả. Trong
mục Tin thơ trên báo Ngày nay (số 98, ra ngày 20-2-1938), Thế Lữ đã điểm thơ xuân
Tản Đà, Xuân Diệu và tiếp đến Nguyễn Bính:
…
“Thơ xuân của ông Nguyễn Bính là những bức tranh nhỏ nhắn vẽ những nét hoạt bát
vui vẻ không có chút gì gọi là kỳ khu. Bốn câu đầu trong bài Xuân về của ông:
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng:
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm,
Liếc mắt nhìn trời, đôi mắt trong.
Vẻ
đùa cợt thực là tài tình ở những tiếng nhắc lại ỡm ờ nhưng không ngang chướng.
Ông
Bính có một giọng thơ bao lơn rất dung dị và rất đáng yêu”...
Với
bút danh Nàng Lê, Lê Tràng Kiều trong bài viết Thi sĩ với giai nhân in trên Tiểu
thuyết thứ Năm (số 6, ra ngày 10-11-1938) đã thẩm bình dòng thơ ca tụng người đẹp
trong thơ Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can, Thế Lữ, đặc biệt đặt trong tương quan
Nguyễn Bính - Nguyễn Nhược Pháp:
…
“Cứ như hai nhà thi sĩ Nguyễn Bính và Nguyễn Nhược Pháp thế mà hóm. Này nhé,
“người ta” của Nguyễn Nhược Pháp chỉ có thế này:
Mê
nàng bao nhiêu người làm thơ
Tiếp
theo trong bài viết Tình và tứ của thi sĩ cũng in trên Tiểu thuyết thứ Năm (số
8, ra ngày 24-11-1938), Nàng Lê đi sâu nhận diện về dòng “thơ ái tình” với chứng
dẫn thơ Tản Đà, Thanh Tịnh, Yến Lan, Nguyễn Xuân Huy, Vũ Trọng Can, Đông Hồ và
nhấn mạnh giọng điệu thơ tình Nguyễn Bính:
“Mãi
đến nay ta vẫn chưa hiểu rõ những người đa tình dễ trở nên thi sĩ, hay thi sĩ dễ
trở nên đa tình. Nhưng nếu chỉ đa tình mà cũng là thi sĩ thì cả một lớp thanh
niên ở mọi thời đại đều đã là thi sĩ cả? Và nếu chỉ là thi sĩ mới trở nên đa
tình thì đời này chẳng nhẽ ít khách đa tình ư?
Có
điều tôi nhận thấy đám thi sĩ họ có cách kêu gào những điều họ muốn, những điều
họ nghĩ. Không những thế, có khi họ nghĩ hộ cả cho người khác nữa. Vì thế có
nhiều người ôm ấp thờ phụng thầm một thi sĩ trong óc cũng chẳng có gì lạ. Ví chắc
hẳn thi sĩ đó một khi đã tả rõ những thổn thức, thiếu thốn, xót thương hoặc băn
khoăn của họ. Ở ái tình, thi sĩ đã khóc hộ ta, và kể lại những băn khoăn của ta
với người khác…
Liền
ngay trên Tiểu thuyết thứ Năm số tiếp theo (số 9, ra ngày 1-12-1938), với bài
viết Văn chương khi về cảnh cũ, nhà văn Lê Tràng Kiều ký rõ tên thật của mình
đã truy tìm nguồn thơ hoài niệm người xưa cảnh cũ từ các tác gia thời Đường
(Triệu Hổ, Thôi Hiệu, Lưu Vũ Tích) đến tiếng thơ của người đương thời, qua
trích dẫn thơ Chế Lan Viên, Thanh Tịnh và đoạn cuối là toàn văn một bài thơ của
Nguyễn Bính:
“Một
chiều khách trở về cảnh cũ...
Khách
là một trong bọn giang hồ - hay dù không là giang hồ - lại là một trong bọn thi
sĩ. Khách sẽ thấy nơi xưa - mà đã hơn một lần, khách bước chân tới - nay đã biến
đổi, tuy rằng cái tinh hoa của cảnh vật vẫn còn nguyên vẹn. Khách bồi hồi vơ vẩn.
Vì khách là thi sĩ. Mà là thi sĩ thì chỉ một vật rất hèn mọn nhỏ nhặt biến
thiên đi cũng đủ làm xúc động lòng thơ. Huống chi cả một phong cảnh đông trong
khung vũ trụ đã đổi thay? ...
Trong
mục Thi pháp thuần Việt ở sách Khảo luận luật thơ mới (Huế, 1940. In lần ba có
chỉnh lý với nhan đề Khảo luận luật thơ, Sơn Quang xuất bản, Sài Gòn, 1967),
Lam Giang coi thơ lục bát là thành quả của Quốc phong và minh chứng bằng lục
bátTruyện Kiều của Nguyễn Du cho đến thơ Nguyễn Bính đương thời:
“Thật
là một vinh dự cho dân tộc vì trải qua hai ngàn năm ảnh hưởng Hán hóa, quốc
phong của ta vẫn còn giữ được bản sắc, thể cách, cú điệu riêng…
…
Duy danh định nghĩa, thơ lục bát của văn chương bác học là một lối thơ đều đều
trên 6 dưới 8. Yêu vận bình vận liên lạc từ chữ thứ 6 của câu trên xuống chữ thứ
6 của câu dưới. Đều đều lắm thì dễ nhàm chán, cho nên văn chương bác học cố biến
đổi cách cắt mạch của câu lục cũng như của câu bát.
Khi
tập thơ Hương cố nhân ra đời, ngay năm sau nhà phê bình Phạm Mạnh Phan đồng thời
là thư ký tòa soạn đã viết bài Đọc “Hương cố nhân” của Nguyễn Bính trên tạp chí
Tri tân (số 54, tháng 7-1942). Trong đoạn mở đầu, Phạm Mạnh Phan khơi gợi vấn đề
một cách hấp dẫn:
“Ít
lâu nay trong làng “thơ mới” của nước ta đã sản xuất ra được một số thi sĩ khá
đông.
Ngoài
những tên đã quen biết như Thế Lữ, Trọng Lư, Huy Thông, Huy Cận, vân vân, một số
những người khác chỉ vào dạng “thợ thơ” (versificateus) nhưng cũng lăm le ôm mộng
lớn muốn người ta liệt tên mình vào hạng “thi bá”!
Làm
được vài bài thơ, xuất bản được đôi ba tập thơ trong đó chỉ tuyền những câu gò
gẫm, những vần ép uổng một cách ngượng nghịu, đâu đã đáng lĩnh chức thi nhân mà
người đời trao tặng.
Hôm
nay tôi giới thiệu với bạn đọc, ông Nguyễn Bính, tác giả tập thơ Hương cố nhân
rồi các bạn sẽ định giá trị thơ ông.
Ông
Nguyễn Bính không phải là một tên mới trong làng ngâm vịnh. Vì tập thơ này
không phải là tập thơ đầu. Nó ra sau hai cuốnLỡ bước sang ngang và Tâm hồn
tôi”…
Từ
đây nhà phê bình Phạm Mạnh Phan triển khai trong đề mục Những câu thơ đẹp với lời
ca tụng Nguyễn Bính đích thực là “thi sĩ”, “người đa cảm”, “mảnh hồn trong trẻo”,
“nên câu tuyệt diệu”:
“Thoạt
mới giở tập thơ ta thấy ngay hai câu thơ in riêng một trang, nhường như tác giả
có ý nêu lên làm đích cho những trang sau:
Xây bao nhiêu mộng thế mà,
Đến nay phải gọi người là cố nhân!
Chưa
cần đọc toàn tập, ta cũng đoán thi sĩ Nguyễn Bính sẽ nói những gì?
Phải
chăng thi sĩ trong tuổi diệu tình đã từng phen gặp gỡ một giai nhân, một giai
nhân mà một khóe mắt cũng đủ nghiêng lệch một tâm hồn, một cái cười nụ cũng đủ
làm đổ vỡ một cái gì ấy?
Thi
sĩ đã từng sống trong những giờ khắc mê ly, tâm hồn đã từng dào dạt vì yêu, vì
nhớ. Và, trong mộng đẹp, ái ân đã từng xây dựng những lâu đài đồ sộ nguy nga.
Thế
mà đến nay người yêu đã nỡ hững hờ để cho ai luống ngậm ngùi, phải cùng nàng
Thơ than thở! Và thôi, từ đây biết bao mộng đẹp đành phải để chúng lắng trong
mơ mà trái tim mang vết âu nhờ ngày tháng gắn hàn!
Đọc
Hương cố nhân, ta thấy thi sĩ Nguyễn Bính là người đa cảm, mảnh hồn trong trẻo
của tuổi anh niên đã sớm thả theo luồng gió ái ân mà nên câu tuyệt diệu:
Con tằm là lụy ba sinh,
Mà em là lụy của anh muôn đời.
Thi
sĩ là người thế nào mà đã chót vì yêu đương mang “lụy” vào mình? Ta hãy nghe mấy
lời thành thật và thấm thía của thi sĩ đã nói về gia cảnh mình:
Thày tôi dạy học chữ nho,
Dạy dăm ba đứa học trò loanh quanh.
Có gì tiếng cả nhà thanh:
Cơm ăn đủ bữa áo lành đủ thay.
Còn tôi sống sót là may,
Mẹ hiền mất sớm, giời đầy làm thơ.
(Nhầm)
Thế
rồi nhà phê bình Phạm Mạnh Phan chuyển tiếp sang đề mục Những câu thơ dở và đi
sâu phân tích, công kích những phương diện yếu kém trong thơ Nguyễn Bính, trực
diện chỉ ra những hạn chế, non yếu cả về nguồn cảm xúc, thi tứ, nội dung và
hình thức - những câu thơ “ngớ ngẩn”, “vừa nhạt nhẽo, vừa sống sượng”, “vừa non
nớt, vừa ẻo lả”, “có một tâm hồn rất ủy mị”:
…
“Đọc những câu thơ mà tôi trích trên đây, độc giả thấy chúng tuy không được tuyệt
diệu, nhưng cũng nhẹ nhàng bay bướm.
Chúng
chứng thực rằng thi sĩ Nguyễn Bính cũng có tâm hồn thi sĩ, biết cảm những cái
nên thơ, biết du dương lòng mình trong những phút đau thương bằng những vần điệu
êm đềm nhè nhẹ.
Ông
đã tỏ ra rằng ở chiếc đàn lòng của ông, cái dây thương nhớ là cái dây rung động
hơn hết.
Nếu
toàn tập có những câu như trên thì, với thời gian, với sự cố gắng, với sức rèn
luyện tâm hồn trong trường đời, ông Nguyễn Bính sẽ có hi vọng trở nên một thi
nhân nổi tiếng trong làng ngâm vịnh.
Nhưng
tiếc thay, bên cạnh những câu nhẹ nhàng đó, chúng ta thấy nhiều câu đã quảng
cáo một cách không hay cho thi sĩ.
Sống
giữa lúc bom đạn nổ inh tai, lửa chiến tranh bùng cháy khắp mọi nơi, các thanh
niên thế giới đang đua nhau xả thân vì tổ quốc, vui lòng nhắm mắt bên bờ nghĩa
vụ, thì ở nước Nam nhà, một thanh niên làm thơ khóc lóc vì tình duyên trắc trở
và muốn hủy hoại thân thể mình, phải chăng đó là một điều đáng buồn cho tương
lai đất nước?
Hỡi
các thi nhân:
Tôi
vẫn biết người là con cưng của Tạo hóa, người có tâm hồn đa cảm sớm biết rung động
trước vẻ đẹp của ngày hè tươi sáng hay sớm biết gẩy những “sợi tơ lòng” trước cảnh
chiều đông mưa phùn, gió rét.
Trước
làn sóng rung rinh của những nhành lục liễu rủ trên gương hồ biếc, không ai
ngăn thi nhân đừng ngâm vịnh mà không “gọi gió, gọi thông, lên tiếng họa”.
Trước
những nỗi đau thương thê thảm của đời, ai cấm thi nhân không được:
Trăm ngàn năm nẩy mãi sợi tơ lòng,
Ca những khúc sầu vui, tình thiên hạ.
(Thế Lữ - Mấy vần thơ)
Vì quả như lời thi sĩ Musset đã nói trong bài thơ La
nuit de Mai:
Les phus déssespérés sont les chants les plus beaux
Et j’en sais d’immortels qui sont de purs sanglots.
mà thi sĩ Nguyễn Giang đã dịch gần được sát ý trong
Danh văn Âu Mỹ:
Vãn thanh cẩm tú trong đời,
Những câu tuyệt diệu ấy lời xót xa!
Hỡi
các thi nhân, người hãy nhận chân cái nhiệm vụ của thi nhân!
Người
đừng đem cái thất vọng vô căn cứ làm tê liệt những hi vọng của đất nước. Người
đừng ca tụng những thú vui nhục dục mê hồn mà chôn vùi nguồn sinh lực của giống
nòi.
Người
hãy gieo rắc bằng những vần điệu huyền ảo vào trong mọi người cái thú say sưa của
một cuộc đắc thắng mãnh liệt giữa những cám dỗ đê hèn của đời vật chất, với những
bổn phận thiêng liêng làm người làm dân trong những giờ phút phục hưng này của
gia đình, của đất nước.
Người
hãy là những đạo sĩ (être des mages) như điều mong ước của nhà đại thi hào
Victor Hugo mà tìm một con đường sáng cho người đồng chủng”...
Có
thể nói đây là những ý kiến chính xác, thể hiện bản lĩnh, tính khách quan,
trung thực của nhà phê bình, góp phần làm nên chất lượng phê bình và qua đó tác
động, phát huy ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác.
Rồi
đến hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân trong lời giới thiệu Một thời đại trong thi
ca ở sách Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, 1942) có ý nhấn mạnh chất
thơ, hình thức và phong cách thơ Nguyễn Bính so với nhiều thi nhân đương thời:
…
“Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại
phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một
hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính,
kỳ dị như Chế Lan Viên... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu…
…
Trái lại, trong thơ Nguyễn Nhược Pháp chịu không thể thấy dấu tích một nhà thơ
xưa nào. Không biết ai đã giúp Nguyễn Nhược Pháp tìm ra nụ cười kín đáo, hiền
lành và có duyên ấy chăng? Dầu sao đây rõ ràng là một nụ cười riêng của người
Việt. Thế mà lạ, trong vườn thơ nó chỉ nở ra có một lần. Sau này Nguyễn Bính đi
tìm tính chất Việt Nam lại trở về ca dao. Thơ Nguyễn Bính có cái vẻ mộc mạc của
những câu hát đồng quê.
Trong phần khái lược chân dung thi sĩ “nhà
quê”, “quê mùa” xứ Sơn Nam hạ, Hoài Thanh - Hoài Chân tuyển chọn 8 bài thơ (đồng
hạng số bài với Chế Lan Viên, xếp trên các tác gia Hàn Mặc Tử, Thế Lữ, Nam Trân
được tuyển 7 bài), từ đó đi sâu phân tích chất thơ hồn hậu in đậm phong vị ca
dao cũng như chỉ ra những sự lệch pha, lạc bước, quá đà ở thơ Nguyễn Bính:
“Ở
mỗi chúng ta đều có một người nhà quê. Cái nghề làm ruộng và cuộc đời bình dị của
người làm ruộng cha truyền con nối từ mấy nghìn năm đã ăn sâu vào tâm trí chúng
ta. Nhưng - khôn hay dại - chúng ta ngày một cố lìa xa nề nếp cũ để hòng đi tới
chỗ mà ta gọi là văn minh. Dầu sau, những tính tình tư tưởng ta hấp thụ ở học
đường cám dỗ ta, những cái phiền phức của cuộc đời mới lôi cuốn ta, nên ở mỗi
chúng ta người nhà quê kia vốn khiêm tốn và hiền lành ít có dịp xuất đầu lộ diện.
Đến nỗi có lúc ta tưởng chàng đã chết rồi. Ở Nguyễn Bính thì không thế. Người
nhà quê của Nguyễn Bính vẫn ngang nhiên sống như thường. Tôi muốn nói Nguyễn
Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức
người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn
cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình
căn bản của ta. Giá Nguyễn Bính sinh ra thời trước, tôi chắc người đã làm những
câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã
có vô số những nhà thông thái nghiên cứu. Họ chẳng ngớt lời khen những câu như:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Hay:
Lòng anh: giếng ngọt trong veo,
Giăng thu trong vắt biển chiều trong xanh.
Lòng em như bụi kinh thành,
Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe.
Tiếc
thay Nguyễn Bính lại không phải là người thời xưa! Cái đẹp kín đáo của những vần
thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt
các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như
thế này thì có gì?”. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu
được bằng lý trí, một điều quý vô ngần: hồn xưa của đất nước.
Nhà
phê bình Lương Đức Thiệp trong công trình khảo sát chuyên sâu Việt Nam thi ca
luận (Khuê Văn xuất bản cục, Hà Nội, 1942) đã xác định tính hai mặt đỏng đảnh của
thể thơ lục bát và so sánh, nhấn mạnh bước tiến từ Thế Lữ, Xuân Diệu, Vũ Hoàng
Chương đến Nguyễn Bính:
“Thể
lục bát phát sinh do cái tính cách đặc biệt về âm hưởng trong Việt ngữ. Hình thức
này do quảng đại dân chúng tạo thành nên rất phổ thông. Nó phổ thông nhưng lại
khó đạt tới được nghệ thuật cho những người chưa thấu lĩnh được hết cái tinh vi
của Việt ngữ. Dùng thể này, một thi sĩ có thể dễ trở thành người làm vè. Chỉ một
hay hai chữ dùng không đắc vị cũng đủ làm cho cả câu đáng nhẽ hay thành ra rất
dở được.
Những
mẩu thơ tự nhiên đến ngây ngô, chân thực đến dớ dẩn là kết quả dĩ nhiên của
quan niệm đơn giản này. Nó không đứng vững được tự trong bản chất của nghệ thuật,
bởi nghệ thuật nào mà phần nhân công không phải nhiều. Vật chất, kể cả âm
thanh, mầu sắc, chỉ là những phương tiện của nghệ sĩ trong việc diễn tả ý tình,
những phương cách biểu thị. Có thế thôi!
Mầu
thuốc, giấy, lụa phải có thay họa sĩ mới thành được bức tranh. Cây đàn không
người nắn, đâu phát ra được những âm thanh trầm bổng mê hồn. Khúc gỗ, tảng đá,
khối đồng không có lưỡi đục nhà điêu khắc đụng vào, không có hồn nghệ sĩ truyền
sang, hẳn không thành hình gì cả, dù gỗ có quý, đá có mịn, đồng có sáng.
Phái
này gồm các thi sĩ “cảm hứng”, thi sĩ “nhất thời”, thi sĩ “bất đắc dĩ”… một số
thi sĩ linh tinh mà tài bộ chưa kết tinh được trong một tác phẩm nào. Kể về số
lượng, phái này trội hơn tất cả”…
Thế
rồi đến nhà phê bình Lê Thanh trong bài Thanh niên Việt Nam với một cuộc cải
cách văn học ngày nay in trên tạp chí Tri tân(số 119, tháng 11-1943) cũng lên
tiếng phê phán quyết liệt lối thơ bi lụy, ủy mị, sáo ngữ, thậm chí bị/ được gọi
là “hủ bại” (trong đó có cả Chế Lan Viên và Nguyễn Bính), giống như lối thơ mới
Trung Quốc đã diễn ra hồi đầu thế kỷ, từ đó định hướng cho một dòng thơ giàu sức
sống và tinh thần tranh đấu:
…“Ta
phải buồn rầu mà nhận văn chương ta ngày nay về một vài phương diện không khác
gì văn chương Trung Hoa trước thời cách mệnh, ngày nay nếu muốn tìm trong làng
văn ta một số nhà văn “không ốm mà rên”, như Hồ Thích đã nói, là một việc không
khó khăn gì.
Chao ôi mong nhớ ôi mong nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối ngàn!
(Chế Lan Viên)
Nhật ký nhòa đi mất cả rồi
Chỉ còn vết mực ố hoen thôi!
Biết rằng nên xé hay nên đốt
Hay để mà thương đến mãn đời?
(Nguyễn Bính)
Trong
công trình nghiên cứu tổng thành Nhà văn hiện đại, quyển ba (NXB Tân dân, Hà Nội,
1943), nhà phê bình Vũ Ngọc Phan tuy không định vị Nguyễn Bính thành một tác
gia độc lập nhưng cũng đã nhắc đến ông trong bài khái quát Các thi gia và xác định
đặc tính thi phái Nguyễn Bính trên dòng chảy con đường tiến hóa của nền thơ Việt
đương thời:
“Người
ta có thể kể những thi sĩ dùng lời thật cũ, thỉnh thoảng điểm một
vài ý thật mới như Đái Đức Tuấn (Tchya), Nguyễn Bính.
Nguyễn
Bính - tác giả những tập thơ Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi (Lê Cường
- Hà Nội, 1949), Hương cố nhân (Á châu - Hà Nội, 1941) - dùng một lối
thật cổ, lối lục bát phong dao để diễn một thứ tình quê phác thực.
Nhiều câu của ông gần như vẽ và thật thà, rõ ràng, như hai lần hai
là bốn”...
Vốn
là thi sĩ nổi tiếng, có nhiều bài thơ in báo và nhiều tập thơ đã được xuất bản
ngay từ trước 1945 nhưng tiếng thơ Nguyễn Bính chưa phải đã được người đương thời
bàn rộng và đánh giá cao. Trên văn đàn, Nguyễn Bính được đón nhận trước hết như
một nhà thơ chân quê, gắn bó với con người và cảnh vật đồng quê, tình yêu thôn
quê dân dã. Thơ Nguyễn Bính được đánh giá cao với chất liệu ngôn ngữ đồng quê
và phong vị ca dao dễ nhớ dễ thuộc. Điều đó cho thấy ngay từ đương thời phong
trào Thơ mới đã xuất hiện những cách tiếp nhận khác nhau về thơ Nguyễn Bính,
bao gồm cả những ý kiến đồng cảm, ngợi ca cũng như tiếng nói phản biện, phản ứng,
phê phán gay gắt. Qua trường hợp thơ Nguyễn Bính đã thấy thấp thoáng một sự đổi
thay, yêu cầu hướng về nghĩa vụ công dân, tranh đấu cho lợi quyền xã hội, dân tộc
và đất nước. Về cơ bản, đó là những tiếng nói của những người có nghề, trung thực,
phản ánh sát đúng chất lượng thơ Nguyễn Bính và cũng chứng tỏ tinh thần khách
quan, dân chủ, đa phương của chính đời sống phê bình văn học đương thời.
4. PHÂN TÍCH CÁI TÔI TRONG THƠ NGUYỄN
BÍNH
4.1 Hoàn cảnh lịch sử thời đại.
Xét về hoàn cảnh lịch sử, từ giữa thế kỷ XIX,
Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam đều là các nước tiền công nghiệp
trước khi tiếp xúc với phương Tây công nghiệp hiện đại. Đây là cuộc biến
thiên lớn nhất tạo nên một tình thế đối lập mãnh liệt giữa cái cũ và mới, giữa
Á và Âu, giữa bảo thủ và cấp tiến. Chính sự tiếp xúc này đã có những biến đổi
sâu sắc, tạo nên những lớp người mới, làm thay đổi cách sống, cách nghĩ và ngay
cả cách cảm. Sự gặp gỡ với phương Tây đã cởi trói và làm thay đổi nhiều quan niệm
từ hàng chục thế kỷ. Và sự thay đổi trong cách nhìn, cách cảm khiến cho thế hệ
mới có cái nhìn khác hẳn về những vấn đề rất đời thường, xem đó như là một sự
chệch hướng về nhận thức.
Việc chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào Việt
Nam và sau Thế chiến thứ nhất, cùng với việc
người Pháp đẩy
mạnh phong trào khai phá thuộc địa đã vô tình đẩy nhanh làn gió của văn hóa
phương Tây vào Việt Nam.
Giới
trí thức trẻ nhanh chóng tiếp thu văn hóa Pháp và nhận ra vần luật, niêm luật của
Nho gia đã quá gò bó trong việc thể hiện tiếng thơ của con người.
Năm 1917 trên
báo Nam Phong (số 5), Phạm Quỳnh, nổi tiếng là người bảo thủ, cũng phải
thú nhận sự gò bó của các luật thơ cũ:
"Người
ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người
làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng
nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy."
Sau
đó, Phan Khôi cũng viết nhiều bài báo chỉ trích
những trói buộc của thơ văn cũ và đòi hỏi cởi trói cho sáng tác thơ ca.
Trong
khoảng 1924-1925,
cuốn tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách kể về mối tình Đạm
Thủy-Tố Tâm đã gây sóng gió trong giới học sinh và thanh niên thành thị, dù
tình yêu ấy chưa vượt qua được rào cản của đại gia đình phong kiến. Tiếp theo
đó, năm 1928, Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã phá vỡ vần
điệu niêm luật, số câu, số chữ của "thơ cũ". Năm 1929, Trịnh Đình Rư tiếp
tục viết trên báo Phụ nữ tân văn (số
26):
"Cái
nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi
có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần
gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật
là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng
mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong
phát đạt được vậy.”
Ngày 10 tháng 3 năm 1932,
bài thơ Tình già của Phan Khôi ra mắt bạn đọc trên
báo Phụ nữ tân văn số 122 cùng với bài giới thiệu mang tên Một lối thơ
mới trình chánh giữa làng thơ đã có tiếng vang mạnh mẽ, được xem là bài
thơ mở đầu cho phong trào Thơ mới. Ngay sau đó, cuộc tranh luận giữa lối thơ mới
và thơ cũ diễn ra vô cùng gay gắt. Mãi đến năm 1941,
cuộc tranh chấp mới chấm dứt do sự thắng thế của lối thơ mới, khép lại mấy trăm
năm thống lĩnh của thơ Đường. Một thời kỳ vàng son mới của văn học
Việt Nam đã diễn ra với tên gọi quen thuộc là phong trào Thơ mới.
Một
trào lưu văn học ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của lịch
sử xã hội. Bởi nó là tiếng nói, là nhu cầu thẩm mỹ của một giai cấp, tầng lớp
người trong xã hội. Thơ mới là tiếng nói của tiểu tư sản. Sự xuất hiện của hai
giai cấp tư sản và tiểu tư sản này với những tư tưởng tình cảm mới, những thị
hiếu thẩm mỹ mới cùng với sự giao lưu văn học Đông Tây là nguyên nhân chính dẫn
đến sự ra đời của Phong trào thơ mới 1932-1945
Giai
cấp tư sản đã tỏ ra hèn yếu ngay từ khi ra đời. Vừa mới hình thành, các nhà tư
sản dân tộc bị bọn đế quốc chèn ép nên sớm bị phá sản và phân hóa, một bộ phận
đi theo chủ nghĩa cải lương. So với giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản giàu
tinh thần dân tộc và yêu nước hơn. Tuy không tham gia chống Pháp và không đi
theo con đường cách mạng nhưng họ sáng tác văn chương cũng là cách để giữ vững
nhân cách của mình.
Cùng
với sự ra đời của hai giai cấp trên là sự xuất hiện tầng lớp trí thức Tây học.
Đây là nhân vật trung tâm trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thông qua tầng lớp
này mà sự ảnh hưởng của các luồng tư tưởng văn hoá, văn học phương Tây càng thấm
sâu vào ý thức của người sáng tác.
4.2 Sự tiếp xúc các nền văn hóa
trong thơ Nguyễn Bính
Xác
định tính dân chủ và tinh thần tiếp xúc đồng đại với đời sống nghệ thuật phương
Tây đã tiếp thêm sinh lực cho phong trào Thơ mới và định hình một hệ hình diễn
ngôn kiểu mới, một hệ thống tư tưởng nghệ thuật và hình thức câu thơ kiểu mới.
Sự
phát triển và tiến hóa của Thơ mới Việt Nam gắn bó chặt chẽ với cội nguồn trào
lưu nhân văn thế kỷ XVIII-XIX và xu thế hội nhập, tiếp nhận ảnh hưởng thơ ca
Pháp và phương Tây. Bản thân các nhà Thơ mới cũng như các nhà phê bình đương thời
đều ý thức rõ điều này...
Sự
lý giải về cội nguồn Thơ mới có thể khác nhau song quan sát dòng chảy Thơ mới sẽ
thấy rõ xu thế tiếp nhận, ảnh hưởng và khả năng hòa nhập với nền thơ hiện đại
trong khu vực và thế giới. Diện mạo và đặc điểm quá trình tiếp nhận ảnh hưởng
các nền thơ truyền thống và hiện đại Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Ấn Độ, Hy Lạp, Nhật Bản,
Trung Quốc... thể hiện sâu sắc qua cả nội dung và hình thức biểu hiện, phản ánh
trực tiếp qua thực tiễn sáng tác và ý kiến của chính nhà thơ cũng như các nhà
phê bình đương thời.
Qua
thời gian, Thơ mới ngày càng phát triển, đạt nhiều thành tựu và làm nên “một thời
đại trong thi ca” (Hoài Thanh)… Trong bước đi ban đầu, nhiều nhà Thơ mới được
tiếp xúc với văn hóa Pháp và phương Tây đã đủ khả năng viết nên một lối thơ mới
mẻ bằng tiếng Việt và cả bằng tiếng Pháp.
Tinh thần dân tộc sâu sắc
Thơ
mới luôn ấp ủ một tinh thần dân tộc, một lòng khao khát tự do. Ở thời kỳ đầu,
tinh thần dân tộc ấy là tiếng vọng lại xa xôi của phong trào cách mạng
Tâm sự yêu nước thiết tha
Có
thể nói, tinh thần dân tộc là một động lực tinh thần để giúp các nhà thơ mới ấp
ủ lòng yêu nước. Quê hương đất nước thân thương đã trở thành cảm hứng trong nhiều
bài thơ, Hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, mái đình, gốc đa, bến nước, giậu mồng
tơi, cổng làng nắng mai, mái nhà tranh đã gợi lên sắc màu quê hương bình dị,
đáng yêu trong tâm hồn mỗi người Việt Nam yêu nước.
Trong
chúng ta, có lẽ không ai là không thuộc thơ Nguyễn Bính, ít ra là một vài câu.
Trên thực tế, thơ Nguyễn Bính đã đi vào tâm hồn dân tộc, thấm vào lời ăn tiếng
nói người dân quê, trong câu hát ru của mẹ, của bà, trong lời giao duyên tình tứ
của những đôi lứa yêu nhau... Có lẽ ở góc độ này, Nguyễn Bính chỉ đứng sau đại
thi hào Nguyễn Du mà thôi.
Để
hiểu cái điều bình dị và kỳ diệu ấy, ta hãy trở về cái không khí xã hội, không
khí văn học Việt Nam, thời Nguyễn Bính mới xuất hiện giữa làng thơ. Thời kỳ ấy,
trưước làn gió mới mẻ của phương Tây thổi vào, khi mà ngưười ta háo hức hiện đại
hoá, đua nhau cách tân, lao vào tìm hiểu những cái mới lạ của phương Tây, thì
Nguyễn Bính cứ hồn nhiên giữa làng thơ với chất quê mộc mạc của mình.
Trong
cuốn Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1940, nhà nghiên cứu phê bình văn
học nổi tiếng Hoài Thanh đã quả quyết rằng: "Trong lịch sử thi ca Việt
Nam, chưa bao giờ có một hồn thơ "quê mùa" như Nguyễn
Bính". Quê mùa mà nổi tiếng, vì quê mùa ở đây chính là cái gốc nhân
bản của con ngưười Việt Nam, cái hương vị thanh tao của đồng quê, cái hồn mộc mạc
của quê hương.
Nguyễn
Bính đã đưa vào thơ mình cái chất quê mùa của hương đồng gió nội một cách có ý
thức sâu sắc. Có thể coi bài Chân quê là một tuyên ngôn nghệ thuật của
ông về cái hồn quê ấy. Trong bài thơ, tác giả mượn lời trách nhẹ
nhàng cô người yêu đi tỉnh về đã để cho hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, để
bộc lộ quan điểm về cái chân quê của mình:
Với
Nguyễn Bính, chân quê chính là cái gốc, là bản sắc văn hoá dân tộc, là nét đẹp
nhân bản của con người Việt Nam, phải biết bảo vệ và gìn giữ nó.
Ðọc
thơ Nguyễn Bính ta nhận ra vô số những viên ngọc ngôn ngữ dung dị mà duyên
dáng, sâu sắc mà hồn nhiên, lung linh toả sáng, toát ra cái hồn quê mộc mạc,
tình quê đằm thắm, tạo thành phong cách Nguyễn Bính, phong cách chân quê. Trong
mạch thơ đồng quê ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, có một số nhà thơ nổi tiếng như
Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… đã để lại cho đời những bức tranh quê
chân thực. Trong số đó, Nguyễn Bính có một giọng thơ riêng, để lại cho đời
những bài thơ mang âm hưưởng tình quê chân thực. Dù có một số bài còn
dàn trải, có vẻ dễ dãi, thơ Nguyễn Bính vẫn đưược đông đảo bạn đọc thuộc và yêu
mến, bởi thơ ông đã nói hộ nỗi lòng, trạng thái tình cảm đa dạng trong tình ái
của nhiều lớp ngưười quê. Những mối tình quê trong thơ ông thưường éo le, ngang
trái, sầu muộn mà đằng sau nó, bạn đọc dễ dàng nhận ra tâm sự bi phẫn về hoàn cảnh
xã hội ngột ngạt, niềm hoài hương khắc khoải khôn nguôi và khát vọng đổi thay…
Nguyễn
Bính đã có công phát hiện vô vàn những vẻ đẹp tinh tế của thôn quê mà mắt thường
không nhận ra được. Cảnh quê ở đây rất đẹp, nó được xây dựng từ những kỷ niệm dễ
gợi cảm nhất trong tâm linh con người về một miền quê thanh bình, hạnh phúc, đẹp
một cách chân thực kiểu cổ điển chỉ có trong tưởng tượng. Cuộc sống thực lam lũ,
khổ đau không cho người ta sống như mong ước thì thơ là niềm khao khát, là ước
nguyện của con người, cũng vì thế cảnh quê trong tâm tưởng tác giả đồng thời là
giấc mộng ngàn đời. Phải chăng đối với nhiều người, ý niệm về quê hương, về nhà
quê ngày xưa phải là một ý niệm đẹp, thú vị, đáng nhớ, một nông thôn trong cảnh
điền viên lý tưởng đáng mơ ước? Người ta tiếp nhận không phải vì nó giống thực
mà vì nó giống như mơ ước, mơ ước của nhiều người qua suốt nhiều thời.
Thơ
quê hương của Nguyễn Bính không hiện thực mà lãng mạn, nhà thơ ít miêu tả những
số phận đắng cay, những cảnh đời cơ cực nhọc nhằn mà hình ảnh làng quê trong
thơ ông thường tươi sáng, thơ mộng. Thi sĩ có những câu thơ thật đẹp về một
nông thôn yên vui, no ấm, thanh bình; nhất là khi Tết đến, cùng với những ngày
hội xuân, khung cảnh làng quê hiện ra đẹp như tranh lụa, mơ màng như giấc chiêm
bao: Tháng giêng vừa Tết đầu xuân/Xanh um lá mạ, trắng ngần hoa cam/ Mưa xuân rắc
bụi quanh làng/Bà già sắm sửa hành trang đi chùa/ Ông già vào núi đề thơ/
Trai tơ đình đám, gái tơ hội hè (Tỳ bà truyện).
Nông
thôn Việt Nam trước Cách mạng khác xa nông thôn Việt Nam ngày nay nhưng lại rất
gần gũi với nông thôn Việt Nam xa xưa: đời sống như ngưng đọng lại trong lũy
tre làng, tâm tình con người được quy định bởi nền kinh tế tiểu nông khép kín,
những cô gái chăn tằm dệt vải chỉ đi từ khung cửi tới nương dâu, cô lái đò chỉ
quen với một khúc sông, một cái bến… Mỗi năm một vài lần diễn ra những sinh hoạt
cổ truyền, những ngày hội lễ, những đêm hát chèo, nhưng tất cả cũng chỉ xôn xao
trong sự tĩnh lặng cố hữu của thôn quê. Những điều ấy ta đều gặp lại trong thơ
Nguyễn Bính. Người ta chợt thấy ngạc nhiên bởi những chất liệu quá ư thân thuộc
vốn có trong đời sống thôn quê hàng nghìn năm nay đi vào thơ lại có sức gợi cảm
đến thế.
Đặc
biệt, trong những bài thơ của mình, Nguyễn Bính đã gợi được cái thần thái của
văn hóa làng quê. Đọc thơ Nguyễn Bính, người ta như sống lại những ngày hội
xuân, những ngày hội làng, những đêm hát chèo, một buổi lễ chùa, những nét tín
ngưỡng tôn giáo và phong tục tập quán, lớp học thầy đồ, những trò vui dân dã,
cách ăn mặc và nếp sống xa xưa, giấc mơ quan trạng… Bài thơ Chùa vắng đã gợi được
một nét đặc biệt của văn hóa làng quê là tín ngưỡng tôn giáo. Hàng ngàn năm
nay, hình ảnh những mái chùa cổ kính đã gắn với xóm thôn Việt Nam, đấy là nơi
mơ ước nguyện cầu, nơi nương náu của những gì sâu thẳm trong cõi tâm linh người
Việt. Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Nguyễn Bính đã tả đúng cái tĩnh lặng, thanh
sạch - nét “thần” của một ngôi chùa ở làng quê: Gió chiều cầu nguyện đâu đây/ Nắng
chiều cắt đoạn một ngày cuối thu / Sư già quét lá sau chùa/ Để thiêu xác lá trước
giờ lên chuông
Nếu ở Kinh Bắc xưa, mùa xuân là hội quan họ
thì ở các làng quê Bắc Bộ, mùa xuân là ngày hội của những đêm hát chèo, cũng là
mùa của các trò vui thật giản dị mà thanh thản, sảng khoái ở chốn đồng quê: Hiu
hiu gió quạt trăng đèn/ Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi/ Ăn gỏi cá,
đánh cờ người/ Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân. (Anh về quê cũ)
Nguyễn Bính không chỉ tài hoa khi dựng cảnh
những ngày hội quê mà ông còn rất am hiểu và khéo léo khi đặc tả những nét văn
hóa làng quê qua cách ăn mặc, qua những nét dáng bề ngoài của người quê. Đây là
hình ảnh một chú bé mà người ta có thể bắt gặp đâu đó trên đường thôn: Tuổi thơ
tóc để gáo dừa/ Tuổi thơ mẹ bắt đeo bùa cần ong (Tiền và lá)
Đây
là trang phục ngày thường rất mộc mạc mà duyên dáng, đáng yêu của cô gái quê -
tất cả cùng in sâu trong tâm khảm của anh trai làng đang ghen bóng ghen gió:
Nào đâu cái yếm lụa sồi? / Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân? / Nào đâu cái
áo tứ thân? / Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen? (Chân quê)
Một
nét đẹp văn hóa ở làng quê Việt Nam xa xưa là ước mơ về sự vinh hiển, là giấc
mơ quan trạng. Giấc mơ ấy trở đi trở lại nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính: Thế rồi
vua mở khoa thi/ Thế rồi quan trạng vinh quy qua làng (Quan trạng)
Chồng
tôi cưỡi ngựa vinh quy/ Hai bên có lính hầu đi dẹp đường (Thời trước)
Rõ ràng quan trạng đương trai/ Vua cho chạy ngựa ba ngày xem hoa (Con nhà nho cũ)
Thời phong kiến xa xưa, quan trạng là một nho sinh giành được học vị cao nhất về khoa cử và được triều đình nhà vua “ân tứ’ ban cho cờ biển vinh quy, rồi được trọng dụng làm quan, hưởng cuộc đời đầy vinh hoa phú quý, bổng lộc cao sang. Có người đỗ quan trạng cũng là niềm vinh dự lớn nhất, là điều vẻ vang, đáng tự hào nhất của một làng quê. Phải chăng trong cuộc đời nhiều lam lũ, nhọc nhằn sau lũy tre làng, người ta muốn thay đổi kiếp sống thì chỉ có mỗi cách thực tế nhất và cũng cao sang nhất là đỗ đạt vinh quy như thế?
Rõ ràng quan trạng đương trai/ Vua cho chạy ngựa ba ngày xem hoa (Con nhà nho cũ)
Thời phong kiến xa xưa, quan trạng là một nho sinh giành được học vị cao nhất về khoa cử và được triều đình nhà vua “ân tứ’ ban cho cờ biển vinh quy, rồi được trọng dụng làm quan, hưởng cuộc đời đầy vinh hoa phú quý, bổng lộc cao sang. Có người đỗ quan trạng cũng là niềm vinh dự lớn nhất, là điều vẻ vang, đáng tự hào nhất của một làng quê. Phải chăng trong cuộc đời nhiều lam lũ, nhọc nhằn sau lũy tre làng, người ta muốn thay đổi kiếp sống thì chỉ có mỗi cách thực tế nhất và cũng cao sang nhất là đỗ đạt vinh quy như thế?
Nguyễn
Bính yêu quê hương nhưng cũng là người tha hương rất nhiều năm trong đời. Sớm
tiếp xúc với cuộc sống đô thị phồn hoa nhưng cũng rất lạnh lùng khắc nghiệt, rồi
qua những ấm lạnh tình đời tình người nơi phương trời xa lạ, nhà thơ nhận ra bản
thân mình không hòa nhập nổi với nó nên xót xa, ân hận, tiếc nhớ không nguôi về
một quê hương thanh bình, tuyệt vời ân nghĩa. Trong ý nghĩa ấy, thơ tha hương của
Nguyễn Bính không chỉ là những buồn thương của một con người xa xứ, nó còn là
khát vọng tình yêu, hạnh phúc, yêu quê hương nồng nàn: Con đò thì nhớ sông xa/
Con người thì nhớ quê nhà bao nhiêu (Trải bao nhiêu núi sông rồi).
Xa quê,
cảm hứng chính của Nguyễn Bính là hoài niệm quê hương. Có một quê hương ở chốn
xa xôi và có một quê hương trong lòng người xa quê. Tưởng như quá vãng bị một lớp
bụi mờ phủ, nhưng chỉ cần hơi gió của tình quê lay động, lớp bụi ấy bay đi, là
lại hiện lên nguyên vẹn chùm hoa xoan màu tím, hoa gạo đỏ tháng ba, dậu mồng
tơi xanh rờn, đêm hội làng “Giời cao gió cả giăng như ban ngày”…
Ai
xa quê mà chẳng nhớ thương quê cũ; nhất là khi cuộc sống hiện tại xung quanh
quá u ám, bế tắc, ngột ngạt, những lời quê thấm đẫm hương đồng gió nội lại càng
khiến người ta xúc động đến nao lòng. Giữa những kẻ tha hương, Nguyễn Bính đem
lời quê ra kể, người ta lắng nghe không phải vì nó giống như thật mà vì đó là
những kỷ niệm thiêng liêng về quê hương còn giữ lại trong tâm linh con người -
quê hương là vẻ đẹp bất biến trong hoài niệm của người xa quê. Có lẽ vì thế mà
thơ tha hương của Nguyễn Bính mang tính tượng trưng ước lệ rất cao: Mưa nhè nhẹ,
nắng thanh thanh/ Nên thơ, ôi cả xứ mình nên thơ!/ Hội xuân gió loạn đuôi
cờ/ Làng xa vào đám nhặt thưa trống chèo (Xuân về nhớ cố.
Thôn
Vân có biếc có hồng/ Biếc trong nắng sớm, hồng trong vườn chiều/ Đê cao có đất
thả diều/ iời cao lắm lắm có nhiều chim bay/ Quả lành nặng trĩu từng cây/ Sen đầy
ao cá, cá đầy ao sen (Anh về quê cũ).
Nhớ
quê đâu chỉ là hồi tưởng về cảnh quê, mà hơn thế, nhớ thương đau đớn đến quặn
lòng là nỗi nhớ những người thân yêu. Nhà thơ xót xa khi nghĩ đến cha mẹ đã già
yếu mà không có ai giúp đỡ trong công việc hàng ngày: “Cha dậm gạo, mẹ vần cơm
- Có con con vắng ai làm thay cho?” - đấy đúng là tâm trạng của một người quê
khi xa nhà. Nhà thơ nghĩ đến lẽ đời dâu bể, nghĩ đến bao chuyện vu vơ vô nghĩa
trong cuộc sống hiện tại “Mẹ cha thì nhớ thương mình - Mình đi thương nhớ người
tình xa xôi” mà càng thêm thương cha mẹ và cảm giác như mình có tội với song
thân: Nhớ thương thày mẹ khôn cùng/ Lạy thày lạy mẹ thấu lòng cho con (Thư
gửi thày mẹ).
Có lần nhà thơ Tố Hữu viết: “Câu thơ hay làm
cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người”. Đúng là những vần
thơ tha hương của Nguyễn Bính đâu phải chỉ để hồi tưởng cảnh quê và giãi bày nỗi
niềm của người xa quê, mà điều quan trọng hơn cả là Nguyễn Bính muốn đánh thức
tình cảm quê hương trong mỗi người quê xa xứ đang lênh đênh góc bể chân trời. Đấy
là tiếng hát tình quê cất lên theo một khía cạnh mới mang tính thời sự của buổi
giao thời, khi xã hội Việt Nam đang chuyển dần theo con đường tư bản chủ nghĩa,
nhiều đô thị mới xuất hiện, kéo người ta ra khỏi tổ ấm gia đình, quê hương,
lang thang kiếm sống khắp những phương trời xa. Cũng vì phải lang thang khắp
nơi, có lăn lộn nếm trải trên đường đời, Nguyễn Bính mới tự rút ra những kinh
nghiệm sống cho mình, do đó chất triết lý suy tư trong thơ tha hương đậm đặc
hơn so với những mảng thơ khác, tạo cho ngòi bút Nguyễn Bính một dáng vẻ mới,
sâu sắc hơn. Có những câu thơ rất cô đọng còn đứng lại với thời gian, như những
chân lý đáng dể chiêm nghiệm: Biển tiền ôi biển bao la/ Mình không bẩn được vẫn
là tay không (Anh về quê cũ).
Có
thể nói, tình quê của Nguyễn Bính không nhạt dần theo những năm tháng tha
hương, trái lại, càng đậm đà hơn. Chính là trong sự cọ sát với môi trường hiện
đại, Nguyễn Bính đã đưa được vào thơ không chỉ tâm sự của mình mà còn của thời
đại trong xã hội đương thời - một xã hội với bao kiếp người trôi dạt, bao buồn
thương bế tắc, bao khát khao hạnh phúc, bao tình yêu tha thiết với xứ sở quê
hương./.
4.3, Đặc điểm cái tôi trong thơ
Nguyễn Bính
Nguyễn Bính được mệnh danh là thi sĩ của
tình quê, thi sĩ “chân quê”. Mồ côi mẹ rất sớm, mười ba, mười bốn tuổi,
Nguyễn Bính phải theo chân anh cả (nhà viết kịch Trúc Đường) ra Hà Nội, Hải
Phòng kiếm sống, rồi sau đó vào Huế, vào tận Sài Gòn…sống “kiếp con chim
lìa đàn”. Trót “Bỏ lại vườn cam, bỏ mái gianh/ Tôi đi dan díu với kinh
thành” (Hoa với rượu) nhưng Nguyễn Bính lại thấy “Bơ vơ trong xứ người
xa lạ” (Lá thư về Bắc), xa lạ với văn minh đô thị đến cùng cuộc biến thiên
“mưa Âu gió Mỹ”, bày tỏ thái độ bất hoà với thực tại, tìm về với vẻ đẹp “thời
trước” của đồng đất mình, quê hương mình. Đó là hai trạng thái tinh thần –
cảm xúc chủ đạo trong thơ Nguyễn Bính trước Cách mạng.
Hai trạng thái cái tôi lãng mạn của thi
sĩ Nguyễn Bính (một cái tôi khắc khoải hướng về không gian làng quê đã mất và
một cái tôi lạc loài trong không gian đô thị xa lạ) có thể thấy rõ nhất trong
những bài thơ xuân. Chính bởi vào xuân là lúc làng quê tưng bừng sự sống, sức
sống hơn lúc nào hết và cũng chính độ xuân gợi nhắc cho người tha hương nỗi
niềm sầu xứ hơn bao giờ hết. Điểm lại những bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Bính,
nhiều bài nói trực tiếp đến xuân và Tết như “Mưa xuân”, “Mùa xuân xanh”, “Xuân
về”, “Thơ xuân”, “Nhạc xuân”, “Gái xuân”, “Tết của mẹ tôi”, “Xuân tha hương”…,
và cả những thi đề tuy không có chữ “xuân” nhưng ý thơ vẫn xoay quanh đề tài
mùa xuân (“Cô lái đò”, “Sao chẳng về đây?”, “Hoa với rượu”, “Lá thư về Bắc”,
“Hành phương Nam”…) thì ai cũng phải công nhận Nguyễn Bính, trong số các nhà
thơ hiện đại, là một trong những người viết nhiều về xuân và Tết hơn cả.
Các
nhà phê bình văn học gọi ông là nhà thơ của hồn quê, nhà thơ chân quê, ca sĩ
của đồng ruộng. Bởi tấm lòng, tình cảm gắn bó máu thịt của ông với quê hương
luôn hiện hữu trong những câu thơ, bài thơ đầy ắp những hình ảnh gần gũi, thân
quen về cuộc sống nơi thôn dã. Từ lũy tre làng, giậu mùng tơi, giàn trầu, hàng
cau liên phòng đến lối ngõ trải rơm, màu hoa đại, hương gạo tám thơm, men nồng
rượu nếp… tất cả đều đẹp đẽ, nên thơ qua cái nhìn, cách nghĩ và cảm xúc của
ông. Trên nền những bức tranh quê tươi sáng, thơ mộng ấy, cuộc sống sinh hoạt
của người thôn quê được ông khắc họa thật sinh động, rõ nét. Đến với thơ ông,
người đọc như được sống trong không gian văn hóa làng quê Bắc Bộ đậm đà bản sắc
với những ngày Tết cổ truyền, hội làng, đám hát thâu đêm, những phong tục tập
quán, trò chơi, nếp sống xa xưa. Đó là hương vị truyền thống trong “Tết của mẹ
tôi”: “Sáng nay mồng một sớm tinh sương/ Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường/ Mở hàng
mỗi đứa năm xu rưỡi/ Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương”. Đó là cảnh một buổi đi
lễ chùa trong “Xuân về”: “Trên đường cát mịn một đôi cô/ Yếm đỏ, khăn thâm trẩy
hội chùa/ Gậy trúc dắt bà già tóc bạc/ Tay lần tràng hạt, miệng nam mô”. Khi vẽ
nên những cảnh quê, tình quê mộc mạc, thuần khiết, ngôn ngữ thơ ông cũng giản
dị, tự nhiên như lời nói của người dân quê trong đời sống dân dã, vậy mà vẫn
làm chúng ta xao xuyến, bâng khuâng.
Nhà
phê bình văn học Hoài Thanh đã thật chí lý khi cho rằng: “Nguyễn Bính đã đánh
thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Người đọc mọi lứa tuổi thuộc thơ
Nguyễn Bính, bởi nhiều câu thơ của ông không chỉ gợi được cảnh quê mà còn diễn
tả chân thành và xúc động hồn quê bình dị mà thiêng liêng, sâu nặng. Có những
bài thơ của ông đã trở thành bài hát ru con, ru cháu, được các bà, các mẹ ngâm
nga bên cánh võng để thổ lộ, giãi bày nỗi niềm của chính mình. Nguyễn Bính yêu
tha thiết quê hương nhưng cũng là người có nhiều năm tha hương trong cuộc đời.
Và như một lẽ tự nhiên, càng xa cách, nỗi nhớ và tình yêu quê hương càng đau
đáu, khắc khoải. Nhiều bài thơ ông viết về những người mẹ quê nghèo, những
người chị đảm đang, nhân hậu như một phần hình bóng quê hương lam lũ mà thắm
đượm nghĩa tình. Nhà thơ xót xa trước nỗi cô đơn của người mẹ: “Xóm Tây bà lão
lưng còng/ Có hai con gái lấy chồng cả hai/ Gió thu thở ngắn, than dài/ Bà đem
áo rét phơi ngoài cửa thưa”. Giữa biết bao bóng người trên sân ga, nhà thơ vẫn
nhìn thấu nỗi lòng quặn thắt của người mẹ đưa tiễn con đi trấn ải xa: “Tàu chạy
lâu rồi bà vẫn đứng/ Lưng còng đổ bóng xuống sân ga”. Ông sẻ chia nỗi niềm với
người mẹ gắng gượng vui lo cho con gái đi lấy chồng, để rồi khi còn lại một
mình mới vỡ òa những buồn tủi: “Con ạ!
Đêm nay mình mẹ khóc/ Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi”. Và nhà thơ khiến ta
nhói lòng khi viết về chính cha mẹ mình: “Con
đi mười mấy năm trời/ Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương/ Thày đừng nhớ, mẹ
đừng thương/ Cầm như đồng kẽm, ngang đường bỏ rơi”. Riêng ở lĩnh vực thơ
tình, Nguyễn Bính cũng có một vị trí xứng đáng, một giọng thơ đặc biệt. Đúng
như nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: “Ngòi bút Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả
những mối tình quê thơ và mộng”. Ta bắt gặp trong thơ ông những mối tình trong
sáng của trai, gái nơi thôn quê nảy nở từ những ngày hội xuân, những đêm hát
chèo, những sinh hoạt đời thường với rất nhiều cung bậc cảm xúc. Có những e ấp,
ngại ngùng của cô gái quê vốn quen sống khép kín bên khung cửi: “Lòng thấy giăng tơ một mối tình/ Em ngừng
thoi lại giữa tay xinh/ Hình như hai má em bừng đỏ/ Có lẽ là em nghĩ đến anh”.
Có những hò hẹn, giận hờn, trách móc: “Chờ
mãi anh sang, anh chẳng sang/ Thế mà hôm nọ hát bên đàng/ Năm tao, bảy tuyết
anh hò hẹn/ Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng”. Có những nhớ mong, tơ tưởng: “Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/ Một người chín
nhớ, mười mong một người/ Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi
yêu nàng”. Có những tiếc nuối khi tình yêu dang dở: “Từ ngày cô đi lấy chồng/ Gớm sao có một quãng đồng mà xa/ Bờ rào cây
bưởi không hoa/ Qua bên nhà, thấy bên nhà vắng teo”. Và có cả những mãnh
liệt, dâng trào như cảm xúc không thể kìm nén: “Hồn anh như hoa cỏ may/ Một chiều cả gió bám đầy áo em”… Những tình
cảm yêu thương trong thơ Nguyễn Bính dù là tình yêu đôi lứa hay tình yêu dành
cho cha mẹ, gia đình, làng xóm đều thể hiện sự chân thành của cảm xúc nên dễ đi
vào lòng người.
Tài
năng của nhà thơ Nguyễn Bính đã được ghi nhận, tôn vinh bằng những đánh giá đầy
trân trọng của bạn thơ, các nhà phê bình văn học và chính xác hơn hết là lòng
yêu mến của bạn đọc nhiều thế hệ. Trải qua thời gian với biết bao thay đổi,
những vần thơ của ông vẫn được nhắc đến bởi nó bồi đắp cho mỗi chúng ta lòng
yêu thương, gợi nhắc chúng ta không quên quê hương, nguồn cội.
Cái Tôi Thơ mới thường nghiêng về sự hả hê bởi
được giải phóng khỏi cái Ta. Nếu cô đơn, thì thường là khi phải đối diện với vũ
trụ mênh mông, khi không có một cái Tôi khác để gắn bó. Nguyễn Bính khác. Trước
hết, về Nguyễn Bính mà nói bằng cô đơn, không ra. Nguyễn Bính là nỗi đơn côi.
Khác nhau có một chữ, nhưng là hai hồn vía. Không phải ngẫu nhiên mà mặc cảm
chia lìa, mặc cảm bơ vơ lại bám riết lấy tâm tư Nguyễn Bính suốt cả đời không
chịu buông tha. Nhìn đâu cũng thấy chia lìa:
"Con sào đẩy sóng thuyền nan lìa bờ", "Chị thương chị kiếp con
chim lìa đàn", "Chán chường như lũ tàn quân lìa thành",
"Những cuộc chia lìa khởi tự đây", "Anh em li tán lâu dần thành
ra", "Lìa cành theo gió lá luồn qua song", "Sầu nghiêng
theo cánh chim lìa tổ"... Nhìn đâu cũng thấy côi cút, đơn chiếc, vô
định: "Hồn đơn chẳng có nơi nương tựa",
"Hồn đơn quằn quại xác gầy", "Muôn vàn đơn chiếc đổ vào đầu
tôi", "Một người đi mấy mươi người nhớ thương", "Ta đi
nhưng biết về đâu chứ", "Anh đi đó ! Anh về đâu?", "Nào
biết về đâu kẻ ngước xuôi", "Biết lạc về đâu lòng hỡi
Nhưng, một khía cạnh rất đáng nói là: bi kịch
của cái tôi kia không có tận cùng. Sinh ra từ cuộc tình đương giữa hồi dang dở
giữa Đô thị và Thôn quê như thế, Nguyễn Bính đã cố chạy theo tìm sự cưu mang
của từng phía, nhưng cả hai đều chối bỏ, mỗi bên phụ phàng theo một cách riêng.
Thoạt đầu ánh sáng kinh thành huyễn hoặc, anh chàng chân quê đã tưởng có thể
gửi mình vào đó, tìm thấy trong hứa hẹn của nó những vinh hoa. Nhưng cuối cùng,
chỉ là phù hoa: "Phồn hoa thôi hết
mộng huy hoàng / Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị". Chán chường, chàng tìm
lại chốn quê. Nguyễn Bính về quê không phải như Đào Uyên Minh "qui khứ lai
từ" bởi quá chán ngán cảnh luồn cúi nơi trường đào mận. Không phải như một
nhà nho thành đạt và chán ngán, về quê theo lẽ xuất xử hành tàng, về ở ẩn lánh
đời. Mà cái Tôi Nguyễn Bính về quê như một người suốt đời băn khoăn đi kiếm
cách sống cho mình, suốt đời tìm kiếm công danh và chỗ đứng trong cái cuộc sống
văn minh đô thị. Mà cuối cùng tay trắng vẫn hoàn tay trắng.
Công danh dở dang,
duyên phận lỡ làng. Cố hương ngỡ bình lặng muôn đời là thế cũng không dung được
một kẻ đã ngập hẳn về thôn ổ mà chẳng thể rửa sạch khỏi lòng mối sầu đô thị ăn
sâu. Yêu lắm lắm những gì chân mộc của cố hương, nhưng giữa kẻ hồi hương và đất
cũ đã có những ngăn cách vô hình không thể vượt qua: Không còn ai ở lại nhà / Hỏi còn ai nữa? để hoa đầy vườn / Trăng đầy
ngõ, gió đầy thôn / Anh về quê cũ có buồn không anh?... Một lần lỡ bước
sang ngang là đơn côi vĩnh viễn. Nguyễn Bính là cái lỡ dở muôn đời ấy. Nó là
một bi kịch không biên giới.
Trong
Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh, khi phê bình về Nguyễn Bính, có viết: "Giá
Nguyễn Bính sinh ra thời trước tôi chắc người đã làm những câu ca dao mà dân
quê vẫn hát quanh năm và những tác phẩm của người, bây giờ đã có vô số những
nhà thông thái nghiên cứu". Thật vậy! Nhiều bài thơ của Nguyễn Bính mang
vần điệu ca dao và rất dễ nhớ. Nguyễn Bính không dùng chữ trừu tượng hay cầu kỳ
để viết nên những vần thơ để đờị Ông cũng không không dùng những triết lý cao
siêu để nói lên những điều hiển nhiên trong cuộc sống.
KẾT LUẬN
Trong
thời đại thi ca của Việt Nam, phong trào Thơ Mới là một bước chuyển lớn đối với
sự đổi mới của thơ ca, góp phần không nhỏ vào kho tàng thi ca của dân tộc. Ở thời
đại ấy, nhiều nhà thơ tài hoa đã thể hiện được hồn thơ của mình, đem đến cho độc
giả những nàng thơ trữ tình, sâu lắng, lãng mạn đến tận trái tim sâu, làm người
ta thêm yêu những bóng hồng đầy chất thi vị. Mỗi người mỗi phong cách, nhưng ở
họ đều thể hiện sự kế thừa tinh hoa truyền thống kết hợp với sự canh tân thi ca
để làm nên những vần thơ sống động, ghi dấu ấn mãi trong tâm trí những người
yêu thơ.
Nguyễn
Bính, nhà thơ được mệnh danh là nhà thơ của nông thôn, “chân quê” có phong cách
thơ giản dị, gần gũi với đời sống của những người nông dân chất phác, thật thà.
Nàng thơ của ông là những cô gái duyên thắm má đào, e thẹn khi đề cập đến tình
duyên, yêu thương không trọn vẹn, tương tư đến tận trời xanh cũng thấu.
Thơ
Nguyễn Bính có cái tôi bình dị, viết về nông thôn, đến nỗi người đời gọi ông bằng
một cái tên đặc biệt “ thi sĩ chân quê”. Cái tôi gần gũi, mộc mạc, đi vào đời sống
của những người nông dân, tình yêu trong thơ được thể hiện qua những vần thơ dịu
dàng, đậm đà bản sắc dân tộc, đôi khi kết hợp một chút phá cách mới lạ của “cái
yêu mới mẻ, hiện đại” của phương Tây, đã
làm cho ông sống mãi trong lòng những người yêu thơ tình, ghi dấu mãi vào kho
tàng thi ca dân tộc một nhà thơ tài hoa, lãng tử.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Hoài Thanh, Hoài Chân – Thi nhân Việt Nam –
NXB Văn học, 2008.
2.
Tô Hoài – Lời giới thiệu, Tuyển tập Nguyễn
Bính, NXB Văn học, 1986.
3.
Chu Văn Sơn – Ba đỉnh cao Thơ Mới – NXB Giáo
dục, 2006.
4.
Chu Văn – Lời bạt, Tuyển tập Nguyễn Bính, NXB
Văn học, 1986.
5.
Hoàng Xuân, Nguyễn Bính – Thơ và đời, NXB Văn
học, 2003.
Tài liệu tham khảo từ Internet:
1. http://maxreading.com/sach-hay/tho-nguyen-binh
2. http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=8328
3. http://www.dactrung.com/Bai-bv-403-Tan_Man_Ve_Nguyen_Binh.aspx
4. http://vanhien.vn/vi/news/Dien-dan-van-nghe-VN
5. http://vanhocquenha.vn/vi-vn/113/50/phong-trao-tho-moi-nhu-mot-dien-ngon-lich-su--
6. http://newvietart.com/index4.886.html
PHÂN
CÔNG CÔNG VIỆC
SINH VIÊN THỰC HIỆN
|
NHIỆM VỤ
|
1.LÊ HỒNG NHỊ
|
- Làm phần 4.1 của phần 4
- Tổng hợp ,chỉnh sửa Word
- Thuyết trình trên lớp
|
2.NGUYỄN HUỆ
|
-Làm phần 3
- Thuyết trình trên lớp
|
3.NGUYỄN THỊ TRÚC HUỆ
|
-Làm phần 4.2 của phần 4
- Làm Power point
|
4. NGUYỄN VĂN THUẬN
|
-Làm phần 1,2
|
5.NGUYỄN THỊ VÂN
|
-Làm phần 4.3 của phần 4
|